|
|
|
BÀI CA SIÊU THOÁT Trước đây, Nguyễn Du cảm nhận cảnh phù du tại thế, xót xa bao cái chết thảm thương dù bất cứ lý do nào, đã viết nên thiên trường thiên ‘Văn tế Thập loại chúng sinh’. Bài thơ biểu lộ lòng nhân đạo của nhà thơ (cũng là nhà tư tưởng), không phải bi quan trước cái chết mà xót thương cho thân phận con người dù cuộc sống gặp toàn bất hạnh hay đã từng thời nên danh nên phận. Nguyễn Du đã mượn ‘lẽ giải thoát’ của nhà Phật, theo cách hiểu phồ thông của thời đại, cầu mong mọi kẻ đã chết, dù thuộc thành phần nào (thập loại) được siêu thăng, tịnh độ, được yên nghỉ nơi an lạc thường hằng.Thời Nguyễn Du, trước cảnh thế tao loạn của Việt Nam, đau khổ đã nhiều. Nhưng, những đau khồ đó còn giới hạn nơi một địa bàn nhỏ hẹp (Việt Nam) hoặc có xa hơn đến những vùng ngoài Việt Nam thì thời đại vẫn còn giới hạn vì lịch sử nhân loại đang ở vào trạng thái nông nghiệp, thủ công. Ngày nay, xã hội ‘công nghiệp hoá’, ‘thương mãi hoá’ trên qui mô lớn rộng, cái chết (ngoài những trường hợp thường hằng xày ra) cũng mặc lấy những kích thước mới.Cái chết nhấp nháy cùa mấy trăm ngàn dân Nhật vì hai quả bom nguyên tử; cái chết của sáu triệu người Do Thái trong những lò thiêu Ðức Quốc Xã; cái chết tập thề vì chiến tranh hay vì nạn đói cùng tai nạn thiên nhiên liên miên xảy ra; cái chết bi thảm trong những cuộc đấu tố giai cấp tại các nước Cộng Sản; cái chết đau thương của trăm ngàn người Việt Nam vượt biền bị hải tặc hãm hiếp, sát hại hay làm mồi cho cá biển; cái chết mõi mòn trong các trại tập trung ở Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Cộng sản; cái chết vô cớ vô can của hàng triệu người bỡi bàn tay của chế độ Pôn-Pốt; kể cả ‘những cái sống như chết’ trong những chế độ độc tài; những cái chết vì tai nạn xe cộ, tàu thủy, máy bay càng lúc càng gia tăng; cái chết lẻ tẻ vì bị hãm hiếp, giết hại do đạo đức suy đồi, do xã hội bất an thường hằng diễn ra mà con số tổng kết cũng lớn lao vô cùng. Hiện nay, đã vào Thiên niên kỷ III, cái chết thảm khốc của hàng loạt người vẫn liên tiếp diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới cùng những thủ đoạn khủng bố rùng rợn (như tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9/2001), những loại vũ khí khủng khiếp, những phương thế chiến tranh tân kỳ càng lúc càng đe dọa mạng sống sinh linh khắp mặt địa cầu. Phải chăng ‘bản chất con ngườI là gian ác, bạo tàn’. Thời đại Nguyễn Du chưa xảy ra những ‘cái chết’ đó. Nó cũng không có những chúng sinh bị đọa đà y vì những ma nghiệt mới của thời đại sau ông. Hơn nữa, trong thời đại nầy, không chỉ có những chúng sinh bị đọa đày mà ngay cả những kẻ gây ra đọa đày cho trăm họ cũng đang ‘chết treo’ trong những chủ trương, chính sách của họ. Lịch sử hầu như đang tiến hành ‘cuộc phán xét cuối cùng’ suốt dọc dài sinh hóa trước nay của chủng loại người : Nghị viện Pháp đã lên án vụ Thổ Nhĩ Kỳ ‘diệt chủng’ dân Ukraine cách đây những trên 80 năm; chính người Pháp cũng tự lên án mình đã sát hại tàn bạo người Algérie trước đây; Giáo Hội Thiên Chúa giáo cũng nhìn nhận mọi bạo ngược của các triều đại Giáo Hoàng trước và đã xin lỗi loài người ; bao nhiêu tên độc tài khát máu như Pinochet, Milesovic, …bị đưa ra Pháp đình quốc tế,…Nay mai, có thể hàng loạt hàng loạt bạo chúa, quỉ vương, hàng loạt quốc gia (Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Trung Hoa, Việt Nam, Do Thái, Ả Rập,…) với những chủ trương, chính sách thâm độc tàn sát sinh linh cũng sẽ được đưa ra phán xét, lên án. Cùng với những chủ trương xét lại lịch sử đó, các tổ chức từ thiện, nhân đạo ngày càng thêm nhiều; các phong trào đòi hỏi Dân chủ, Tự do, Nhân quyền, Nhân phẩm, bảo vệ môi sinh,…càng lúc càng phát triển. Liệu các sự kiện nầy có là báo biểu cho giờ ‘tĩnh thức’ của con người, của cả chủng loại người để lương tri thay tà ý, trí tuệ thay trí khôn, tình thương thay thù hận, hòa bình thay chiến tranh, tự do thay nô lệ, dân chủ thay độc tài, công bình thay áp bức, hổ tương thay cho chiếm hữu?Lịch sử nhân loại đang tiến đến thời kỳ mà các thành tựu qui mô về mọi mặt cũng như mọi tàn phá, gảy đổ gây ra cho nhau hàng thiên niên kỷ sẽ đưa nhân loại vào một khủng hoảng lớn rộng và đều khắp nhân quần để từ đó bừng tĩnh xoay chiều tư tưởng sao cho Văn minh và Văn hóa, Tiến bộ và Tiến hóa luôn luôn kết hợp, đồng hành thuận hảo. Nhân loại đang đối diện với một ‘xung kích của tương lai’, một ‘xung kích của các nền văn minh’, thế giới đang trên đà ‘toàn cầu hóa’và ‘chống toàn cầu hóa’, phải chăng đang bước vào thời diểm của cơn "quặn thắt cuối cùng" để " sinh thành" trở lại?Trong cái nhìn đó, theo chân Nguyễn Du, ‘Bài Ca Siêu thoát’ gọi tất cả mọi ‘Hồn sống’ và ‘Hồn chết’ cùng ‘Sống lại để cùng xây dựng ‘kỷ nguyên mới cho loài người’. Thời gian trôi qua, lịch sử có già nhưng người trẻ lại (ngườI nơi đây chỉ chung nhân loại). ‘Sống lại’ hay ‘Lai sinh’ (nơi câu cuối bài thơ) không là từng người sống lại mà cả nhân loại hồi sinh để làm nên trang sử mới cho chủng loại mình như lời Phật ‘Hồi đầu thị ngạn’ (quay đầu thấy bến) và lời Jésus: ‘Ta làm mới lại tất cả’. (Không thể kể hết được mọi cái chết, người viết xin mượn địa bàn Việt Nam làm bối cảnh cho thời đại). N.T.
Thuở trời đất mưa sầu gió thảm Cõi nhân hoàn quỷ ám ma trêu Nước non từng trận tiêu điều Ngày phơi xác rũ, đêm treo hồn tàn! Ta từng phút chứng nhân lịch sử (2) Ta từng giờ tư lự mê cung Thảm thương trời đất vô cù ngThánh nhân lệ nhỏ, anh hùng lụy sa! Ta xin nhập vào ma vào quỷ Ta xin làm gió dị mưa điên Mười phương tám hướng diện tiền Dẫn từng sông máu lại miền nguyên sơ Ta xin đứng nơi bờ vực thẳm Ta xin trèo lởm chởm dốc cao Cười trên nghìn cuộc bể dâu Ðạp tan thành quách, xóa màu tang thương. Thơ ta đấy chập chù ng máu lệThơ ta đây dâu bể trù ng trùngNghìn muôn vạn kiếp lao lung ‘Bài ca chung cục’, hội mừng tiễn đưa. (3) Sầu một phút dây dưa vạn kỷ Vui một giờ hoan hỷ bao thu ? Từ bi độ giải oán thù Nẻo về bến giác, ta ru lời thiền ! Ðêm thanh vắng giờ thiêng cầu nguyện Khắp mọi miền khí quyển sương sa Khói hương ngút cõi ta bà Vang vang thập điện tâm ca gọi hồn ! Hồn hỡi hồn ! ‘Nào đâu chốn cô đơn hồn ngự Nào đâu nơi lữ thứ hồn đi Phóng tâm ta đón hồn về’ (4) Chia nhau cơn nấc, tiếng thề quặn đau ! Hồn hỡi hồn ! Hồn có sống đê m thâu ngày héoHồn có hờn lạnh lẽo dung nhan Nhạt nhòe sông núi quan san Võ vàng nhật nguyệt điệu tàn ố phơi ?! Hồn có thấy chơi vơi vạn cõi Hồn có nghe vòi vọi ngàn khơi Bập bùng đỏ lửa nơi nơi Tiếng gào quỷ dị, giọng cười cuồng điên ? Bày tiệc máu say liên hoan hận Dựng cờ xương dàn trận mê cung Mười phương tám hướng mịt mùng Giăng giăng màu đổ, trù ng trùng mưa tuônÐiệu kèn quỷ gieo buông thảm họa Giọng đà n ma xô ngã giang sanHuyết kỳ ngờm ngợp màu tang Lời hô phù thủy ngút ngàn bủa giăng Trời sắc xám trùng quang lạnh giá Ðất ố màu cỏ đá hoang liêu Ngẩn ngơ từng sớm từng chiều Ngày phơi trủng tối, đêm dìu bóng ma! Hồn có nhập cuồng ca dị dị Hồn có say luân vũ man man Ðời vào hiu hắt gió sương Người vào thiêm thiếp đoạn trường héo hon! Tay ma chủ ngón buông ngón bắt Cửa ma cung cánh chặt cánh lơi Hỗn mang lịch sử bời bời Hôn mê truyền thống rụng rời lá xanh! Thuyền lạc nẻo quê hương vời vợi Người lạc hồn bến đợi mù tăm Mỗi người một đoạn trư ờng nhânChúng sinh một lũ âm binh vọng hồn! Hồn hỡI hồn! ‘Nào đâu chốn cô đơn hồn ngự Nào đâu nơi lữ thứ hồn đi Phóng tâm ta đón hồn về (4) Chắt chiu từng giọt đầu tê cúi đầu! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy đè o sâu ải hạngHồn có nghe gió loạn đầu non Trời Tây những tịch dương mòn Trời Ðông những nguyệt thu rằm ma trơi? Tiếng nức nở khóc đời huyễn hóa Giọng ai bi than quả vô thường Sè sè từng nấm mồ hoang Thân phơi hang rú, xác mòn đường truông Ngày ngắt ngoải nắng sương quằn quại Ðêm ôm hờn ngút cõi âm ty Thẫn thờ dẫn bóng ma đi Chân không bám đất, hồn ly biệt hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy thân mòn quạnh quẽ Hồn có nghe lạnh ghẽ xa xương Bồi hồi giọng dế kêu sương Não nùng tiếng cú điểm trường đọan canh? Lời vật vã nhân tình đòi đoạn Tiếng thở than lận đận phù sinhSớm ra nhòe nhoẹt bóng hình Chiều tê cúi mặt phận mình hư không Vùng đất cháy ngày nung lửa quạ Dặm đường băng đê m tòa u linhHồn ma bóng quế rập rình Bơ vơ đất trích, lênh đê nh u hồn!Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy gió dồn sóng vỗ Hồn có nghe thác đổ mưa tuônTóc người quyện bám bèo sông Thân người tẩm liệm đất bù n nổi trôi?Tiếng ai oán xô trời đất lệch Giọng nỉ non ngờ nghệch trăng sao ‘Gẫm thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê’ (5) Mang thân guộc lối về núi Sọ(6) Chở hồn đau theo ng ỏ ma trơiTháng năm dầm dã i kiếp ngườISống mê, chết dở, hồn thoi thóp hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy chập chờn hắc dạ Hồn có nghe tiếng quạ kêu ma Hắt hiu hè phố làm nhà Sớm nương bãi chợ, tối nhờ gầm xe? Tiếng thổn thức máu se lệ máu Giọng nghẹn ngào da cóng xương da Lang thang một kiếp không nhà Chiêm bao lãng đãng trông giờ hoá thân! Não nhân thế điều ân tiếng oán Ðau nhân tình giọt đắng lời cay Ngày qua rồi lại qua ngày Hư không cào cấu chai tay vô hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy thây cồn chất ngất Hồn có nghe tiếng nấc vào khuya Dặm phần hun hút sơn khê Phận trai bèo bọt não nề tha hương? Tiếng sát phạt mộng cuồng lơ láo Giọng hờn căm đau đáu ruột gan Máu nào tô thắm sử vàng Máu nào liệm chết từng trang sử đời? Mắt thao láo trông vời cố quận Lệ ngưng tròng uất hận trao ai? Não nùng núi thẳm sông dài Cú khuya gọi vía, quạ mai gọi hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy dập dồn bể quạnh Hồn có nghe ớn lạnh vào xương Gió dồi sóng giập loạn cuồng Tàu ma trải nắng phơi sương hãi hùng? Tiếng cầu nguyện chìm trùng trủng tối Giọng ai bi chới với màn đêm Phận người lỡ kiếp ăn xin Cuộc liều sinh tử nổi chìm phó trao! Sống thổn thức máu đà o quê nộiChết mơ màng lễ hội chiêm bao Truân chuyên đọ với dãi dầu Xác trao phận xác, hồn trao phận hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy ngày gom trủng tối Hồn có nghe đê m trổi thê lươngPhố đầu cho chí cuối thôn Nát gan tím ruột quặn dồn âu lo? Lời năn nỉ thấp to van lạy Giọng trần tình những gãi tai trâu Sức người, sức của lao đao Còng lưng đóng trả, trống đầu trơn tay Thân trâu ngựa vỡ mày vỡ mặt Phận cùng đinh bụng thắt lưng teo Ðọa đày nắng cháy sương gieo Xác còm cõi xác, hồn nheo nhóc hồn! Hồn hỡi hồn! Hồn có thấy mưa hờn gió tủi Hồn có nghe tiếng trối lời than Rào gai, lũy thép hàng hàng Ðầu quê cuối chợ ngổn ngang tội đồ? Thân ‚nô lệ’ (?) nay vồ mai bắt Phận ‚tôi đò i’ (?) xích thắt xiềng mangNgay gian lỗi phải mặc lòng Ðầu hoa sáu khắc, mắt vàng năm canh! Thời cú quạ mèo rình chó rúc Thuở bạo Tần nhung nhúc Khuyển, Ưng Kiếp đời quốc phá gia vong Xác bầm máu xác, hồn đông máu hồn! ........................... Ôi ! Nhân thế dập dồn thảm cảnh Tử cùng sinh buốt lạnh hình hài Cuộc cờ xương máu ghê thay Sống no uất hận, chết dài khổ đau! Trời se thắt tiếng sầu tiếng thảm Ðất thê lương giọng oán giọng hờn Nổi chìm bể hoạn mênh mông Hôn mê bờ hoặc, cuồng ngông bến đời! +++++ Hồn hỡi hồn! Nào đâu chốn cô đơn hồn ngự Nào đâu nơi lữ thứ hồn đi Phóng tâm ta đón hồn về’ (4) Chung câu sám hối, cỡi thề, giải căn! Hồn hỡi hồn! Cõi địa phủ quại quằn oan nghiệt Cuộc thế trần tử biệt sinh ly Âm Dương đôi ngã phân kỳ Dày trang máu lệ sử ghi thắm dòng! Trò quỷ lộng bạo tàn ngược ngạo Thói ma vương vô đạo vô thường Mịt mờ đâu lẽ cù ng thôngBờ mê bến hoặc bềnh bồng xa luân! Lớp gảy đổ tiếp dò ng chiến thắngLẽ oan cừu đuổi bóng thà nh côngRồi ra công cốc công không Máu phơi đỏ máu, xương chồng trắng xương! Kiếp người đã thảm thương bèo bọtPhận người đà não nuột thê lươngGây chi bao cảnh tai ương Loạn màu nhân thế, nghẽn đường tồn sinh? Diệt chiếm hữu, riêng giành chiếm hữu Phá xiềng gông, dựng lớp xiềng gông Phũ phàng lòng dạ sói lang Chửi người, mình lại gian ngoan gấp nghìn! Giành giải phóng, nắm quyền sinh sát Tranh tự do, hiếp đáp thê m dàyTuồng đời dở tĩnh dở say Miệng lời son phấn, tay cài đòn ma! Trò ngụy tín ba hoa tròng tréo Thói giả hình mưu mẹo ganh đua Cuộc cờ cơ được cơ thua Mồ xương mã máu, ngón đùa đấu tranh ! Chẳng hiểu lẽ ‘theo vinh liền nhục’ Chẳng học bài ‘trâu húc ruồi tan ‘ Rồi ra đôi nước cờ tà nTiếng đời theo tận mồ hoang bã i cồn !Ôi ! Cảnh thế chập chùng dâu biển Ôi ! Nhân tuần họa hiểm trao nhau Trông vời ngã trước đường sau ‘Máu xương vô định đã cao bằng đầu’! (7) Sẵn đây gọi hồn đau vạn kỷ Muôn kiếp sầu vạn lý pha phôi Về đây chung một kiếp người Về đây chung một trận cười giải oan…. Cõi nhân thế bi hoan phận cỏ Chốn dạ đài nức nở u linh Thương thay thập loại chúng sinh Sống oan, thác uổng, nhục vinh cũng là… Ðường lịch sử thiên ma bách chiết Cuộc phong trần bi thiết ghê thay Căn cơ nghiệp chướng còn đầy Nhân qua quả lại trả vay nợ đời Thân ngũ uẩn đất trời khôn biết Cuộc phù sinh quặn siết tân toan Ðược, thua một lẽ đôi đường Sống khô thân thế, chết mòn thế thân ! Giàu sang đó, cơ hàn mấy lúc Anh hùng kia, ô nhục mấy hồi ! Sòng đời thay bậc đổi ngôi Ham chi chuốc lấy tiếng cười thị phi ? Ngẫm sự thế đường đi ngã đến Quẩn cùng quanh một tiếng tranh ăn Chữ quyền, chữ lợi bon chen Chữ danh, chữ sắc, phận hèn nào hay ! Thói ‘chiếm hữu’ trò bày lắm cách Ðưa người vào ngỏ ngách oan khiên Tự mình chuốc não tạo phiền Rồi gieo oan nghiệt, đảo điê n lên đời !Lòng dục nọ mắt ngời lửa cháy Trí hôn mê bùa ngãi hư vinh Vật vờ trong cảnh u minh Con thuyền bào ảnh bập bềnh hư không! Thân ngũ uẩn mắc vòng sinh diệt Cuộc tồn sinh mải miết mù lòa Trăm năm tuổi trẻ tuổi già Sắc, tình, tài, lợi,…bôn ba xích xiềng! Cõi vĩnh phúc bảo miền ảo ảnh Tâm Chân Như cho cảnh u mê Quẩn quanh chẳng một lối về Thoát duyên trần cấu, giải thề phù sinh! Xác tạp khí cốt hình ma nghiệp Hồn phù du đeo kiếp tội đồ Bốn bề uế khí tanh nhơ Máu ô miệng máu, thân đờ đẫn thân! Cảnh địa ngục giữa lò ng cõi sốngGió âm ty lạnh cóng hình hài Kiếp đời vay trả trả vay Tham, Sân, Si, Hận,… đọa đà y thế gian!Nói sao hết cuộc trần tội lỗi Kể sao đan chì m nổi luân trầmMượn lời kinh kệ giải oan Mượn câu Giải thoát, gọi hồn siêu thăng Lẽ nhân quả bớt phần cay nghiệt Cuộc đoạ n trường bớt thiết thê đauChúng sinh thập loại xưa sau Oan khiên xin giải, hồn mau gọi hồn! +++++++ Hồn hỡi hồn! ‘Nào đâu chốn cô đơn hồn ngự Nào đâu nơi lữ thứ hồn đi Phóng tâm ta đón hồn về’ (4) Vui câu giải kết lời thề hỗn mang! Trời với đấ t ngút ngàn thảm khốcTháng với ngày tang tóc thê lương Tâm nhang một nén mười phương Ta thiêu mạt thế giải oan, hồn về! Hồn hỡi hồn! Mời tất cả hồn mê, hồn tĩnh Hồn vật vờ vô định vô phương Hồn phơi mưa lũ gió cuồng Hồn lìa nẻo thuộc dặm trường quan san Hồn thập loại sinh oan thác uổng Hồn mười phương tám hướng Tây Ðông Hồn Nam, hồn Bắc trùng trùng Hồn dương cảnh, hồn mấy từng cõi âm Hồn đơn lẻ âm thầm thân thế Hồn kết đoà n tập thể mệnh vongHồn dù nên tội nên công Hồn dù thành bại, có không, tay trần Hồn thất thế sa chân, lỡ bước Hồn nhục vinh, thua được, nê n hưHồn đau nhân ảnh hư phù Hồn hờn vân cẩu bãi mù sông mê Hồn lãng đãng sơn khê cùng cốc Hồn nổi trôi bàng bạc trùng dương Hồn đau thân cát bụi đường Hồn quằn quại máu hầm vuông hố tròn Hồn quạnh quẽ tiếng hờn nức nở Hồn tang thương vạn thuở phôi pha Hồn nằm không chiếu không nhà Hồn đau khách địa bóng tà nguyệt phơiHồn bạc phước nơi nơi địa chấn Hồn sóng thần táng mạng biển sâu Hồn bay lạc nẻo tinh cầu Hồn vùi xa lộ sông sầu cuộc chơi Hồn ngục tối ngậm lời eo óc Hồn dạ đà i oan khốc khôn nguôiVề đây, hồn hỡi, hồn ơi ! Chung nhau tiếng khóc, giọng cười…qua trang! Hồn hỡi hồn! Ta đón hồn mê nh mang vạn nẻoTa chờ hồn lẻo đẻo phù sinhVề đây, hồn hỡi, có linh Về đây, hồn hỡi, có mì nh, có ta !Kiếp gió bụi ta bà thế tục Phận tồn sinh bến đục bến mê Hồn ơi, ta gọi hồn về Sá gì một giấc điên mê hồng trần ! Ðường lịch sử máy vần xoay đổi Nẻo thế đồ muôn nỗi truân chuyê nTấm thân bèo bọt chiềng chiềng Sá gì hư thực, ngửa nghiêng, hỡi hồn ! Hồn hỡi hồn ! Nương cánh khói về đây vồi vội Theo mùi nhang vào hội bi hoan Tạ từ thế kỷ chạy quàng Tạ luân hồi, tạ vô thường cuồng quay Tạ huyễn mộng, đê m dài ngày ngắnTạ trầm luân xác đống thây gò Tạ máu đổ, tạ xương khô Tạ từ, nầy những ‘cơ đồ không tê n ‘ (8)Tiếng từ tạ, ngọt mềm nồng mặn Lời cảm ơn, nghĩa nặng tình sâu Về đây, hồn hỡi, về mau Khép trang cuồng sử bể dâu, thương đờI ! Hồn hỡi hồn ! Này đang lúc ngút trời biển lửa Này đang giờ rộng bủa mê cung Cuộc liều tối hậu đoạn trường Cuộc cơn quặn thắt cuối cùng hỗn mang ! Ta sắm sẵn linh trang hồn ngự Ta giải bày mọi thứ hồn vui Mời hồn vào cuộc rong chơi Trườn lên bể máu, tạ đời điêu linh ! Hồn hỡi hồn ! Ta gọi hồn lênh đênh cánh nhạc Ta mời hồn bát ngát lời thơ Về đây, hồn hỡi, ta chờ Ðón dòng Sử lịch nguyên sơ lại mùa. (9) Hồn hãy đến sớm, trưa, chiều, tối, Hồn hãy về cũ, mới, nay, xưa Giải căn bao kiếp sống thừa Thay dòng sinh tử, đổi mùa tử sinh ! Giờ chuyển hóa ma kinh, quỷ khiếp Phút hoàn lương liễu kết pha phôi Về đây, hồn hỡi, hồn ơi ! Ðốt trang hồng lệ, mở lời càn khôn ! (10) Hồn hỡi hồn ! Ta đón hồn nương muôn cánh khói Ta cầu hồn khắc khoải lời kinh Giả từ bao nẻo u minh Tâm như một tiếng vẹn tình nước non ‘Cuộc cờ đó’ đã tròn quên, nhớ (11) Tạ từ đây, giờ mở lời vui ‘Bài ca chung cục’, hồn ơi! Lễ chào Nguyên khởi, Hội mời Khởi nguyên (12) Ta với hồn vẹn nguyền tâm niệm Ta cùng hồn hỏa liệm tâm sai Lời ca siêu thoát hòa hài Về đây, hồn hỡi, viết bà i "LAI SINH !" .__________________ Chú thích: l) Bài ca siêu thoát: Bài ca không nhằm siêu độ từng hồn oan mà nhằm giải trừ căn cơ nghiệp chướng, giải trừ cái ‘tâm sai’ ngày qua và bây giờ để được sống trong trạng thái ‘Tính Không’ từ nay và để tạo lập một “Lễ Hội” mới cho nhân loại. 2) Ta: Việt Nam hay Dân tộc Việt Nam 3) Bài ca chung cục: mượn ý một nhà thơ Pháp: le chant final, ý nói bài ca cuối kỷ nguyên, trang đời sau cùng của kỷ nguyên nầy. 4) Ðoạn thơ của Ðinh Hùng trong bài ‘Thần Tụng’ trong tác phẩm ‘Mê Hồn ca’. 5) Hai câu thơ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong ‘Cung oán ngâm khúc’. 6) Núi Sọ: đồi Golgotha, nơi Chúa Jésus bị đóng đinh. Mượn hì nh ảnh nói lên nỗi đau khổ tột cùng.7) Câu thơ của Nguyễn Du trong ‘Văn tế thập loại chúng sinh’ 8) Cơ đồ không tên: đoạn thơ của Ð inh Hùng trong tác phẫm nói trên.9) Sử lịch: dòng vận hành của Lẽ Ðạo chi phối dòng Tiến hóa của vạn hữu, theo Phật Giáo là từ ‘Chân không vào Diệu hữu’ để dẫn về ‘Diệu hữu trong Chân không’, nói dễ hiểu, theo tiếng Việt là: ‘từ ‘Không vào Có’ cuối cùng dẫn về ‘Không trong Có’. (Theo tiếng Pháp, có thể dịch là : ‘le Chemin du Tao, le Chemin de l’Être’). 10) Hồng lệ : trang sử máu và nước mắt. 11) Cuộc cờ đó : chỉ chung cuộc sống thế gian lâu nay cùng những món nợ đối với mình, với người, với gia đì nh,xã hội, với đất nước, non sông, lịch sử.12) Lễ Hội : mượn ý Nguyễn Du trong ‘Ðoạn trường tân thanh’ : « Lễ là tảo mộ, Hội là đạp thanh » . Có Lễ là có Hội và ngược lại. Hội nhờ Lễ mà có ý nghĩa ; Lễ nhờ Hội mà được bảo tồn. Trong bài thơ : Lễ và Hội là để từ tạ Kỷ nguyên qua và chào đón Kỷ nguyên mới. ‘Nguyên khởi, Khởi nguyên’ : le Commencement, mượn ý Khổng Minh : ‘Thủy hữu đầu, chung hữu thủy’ và ý M. Heidegger : l’autre Commencement.
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002