Đại Chúng số 107 - ngày 1 tháng 10 năm 2002

CHỮ TÌNH VÀ CHỮ YÊU

Vân Uyên

Trong số những từ ngữ được nhắc đi nhắc lại từ 2000 năm nay, qua mọi thứ tiếng của loài người, để xây dựng nền văn minh của sự sống nhân tính, có lẽ không có từ nào lại nặng nghĩa bằng chữ: Yêu.

Chữ yêu thường có một hấp lực quyến rũ, kỳ diệu. Yêu chiếm địa vị nào trong hướng sống của mỗi người? Của bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau kể từ khi khai thiên, lập địa đến nay?

Đã là người không thể nào không đặt vấn đề yêu. nhưng tím yêu ở đâu? Có nên tìm yêu với bất cứ giá nào? Có thể yêu mà không gặp thử thách hay ảo tưởng?Có khi nào sống yêu mà không biết mình đang yêu hay đã được yêu?

Chữ yêu có những tầm thước rất thâm sâu. Bài nầy sẽ chỉ đề cập tới một khía cạnh người ta thường nhớ tới khi nói đến chữ yêu. Đó là tầm thước tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.

Ngày nay, khi nghe nói trai gái yêu nhau, mọi người đều coi đó là chuyện thường. Nhưng khi tìm hiểu về truyền thống dân tộc và đọc lại Thánh Kinh, mới thấy nam nữ yêu nhau không phải là chuyện thường và hình như có hai điểm nổi bật:

Điểm thứ nhất: Quan niệm về yêu rất mới đối với dân tộc.

Điểm thứ hai: Quan niệm về yêu theo Thánh Kinh rất lạ lùng, vì Cựu Ước so sánh tình của Thiên Chúa đối với Dân Hứa là Israel cũng như tình yêu nam nữ, và Tân Ước coi tình của Chúa Kitô đối với Giáo Hội giống như tình yêu phu thê.

CHỮ TÌNH TRONG TRUYỀN THỐNG

Truyền thống dân tộc chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hoá Trung Quốc mà nguồn gốc là Tam Giáo (Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo), qua những thuần phong mỹ tục như: Thờ phụng tổ tiên, lễ nghi cưới hỏi, đạo vợ chồng, có nhiều con nối dõi tông đường, nhất là con trai...tuy phong tục lễ nghi cổ truyền trong dân gian Việt Nam có những điều khác với Trung Quốc như: Lễ cheo, tục nam nữ tương thân...

Những tư tưởng hướng đạo về đời sống vợ chồng qua truyền thống dân tộc, không thấy đề cập tới vấn đề “yêu” như một giá trị tôn giáo, tuyệt đối, cột trụ.

Tư tưởng Khổng Giáo, còn được gọi là Nho Giáo hay đạo Khổng là một tư tưởng chú trọng vào nề nếp trật tự, xây dựng con người có trách nhiệm và giữ đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội.

Hướng chỉ đạo đời sống con người theo Khổng Giáo có thể tóm lược vào bốn chữ "Ngũ Luân, Ngũ Thường"được gọi là Luân Thường Đạo Lý. Ngũ Luân là tình vua tôi, tình cha con, tình vợ chồng, tình anh em, tình bè bạn. Ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

Những nguyên tắc và nghi lễ của Đạo Khổng có kỳ vọng đảm b?o sự hài hoà những tương quan giữa trời đất và con người. Sự hài hoà nầy khi đạt được sẽ dẫn đến hạnh phúc cho con người.

Học thuyết Khổng giáo muốn ổn định thế quân bình của hai năng lực được coi như động lực hoá sinh mọi sự vật, là khí âm và khí dương.

Theo Kinh Dịch, trời đất do hai nguyên tố Aâm Dương tạo nên. Aâm dương là đạo của trời đất, cương kỷ của vạn vật. “Aâm dương giả, thiên địa chi đạo giả, vạn vật chi cương kỷ”. (Hoàng đế Nội Kinh Tố vấn).

Theo Kinh Lễ, khí âm hay sinh nhưng phải có khí dương mới sinh được, khí dương hay nuôi vật nhưng nếu không có khí âm thì không lớn được.

Cho nên trai phải có vợ, gái phải có chồng, phối hợp âm dương mới có thể sinh trưởng được. Vì vậy theo lẽ tự nhiên của Tạo Hoá, đã có khí âm, khí dương ắt phải có đôi lứa vợ chồng. Dù là trời đất cũng có vòng phu thê. Có âm dương phối hợp mới có trời đất.

Những tư tưởng nầy được diễn tả trong bốn câu thơ từ 125 đến 128 trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của Ôn Như Hầu như sau:

Kìa điểu thú là loài vạn vật

Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng

Có âm dương có vợ chồng

Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.

Khổng Giáo coi đời sống vợ chồng là lẽ tự nhiên của trời đất. Như vậy vấn đề chỉ được nhìn thấy duy nhất dưới một khía cạnh là khía cạnh thiên nhiên như một hấp lực đực cái giống như các sinh vật khác, và không đặt vấn đề yêu đương.

Người nữ có hiểu biết ngày nay chắc cũng không dễ dàng gì chấp nhận một mẫu gia đình trong đó người vợ phải chấp nhận chữ "tòng" chứ không được nghĩ đến chữ “yêu".

Lão Tử là một người có tư tưởng phóng khoáng, thích sống đời ẩn dật, đơn giản và khiêm tốn.

Những tư tưởng của Lão Tử được ghi chép trong cuốn: “Đạo Đức Kinh”, nên phái của Lão Tử được gọi là Đạo Giáo, Lão Giáo hay Đạo Lão.

Danh từ “Đạo Đức”” của Lão Tử không có ý nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay.

Chữ “đạo" của Lão Tử có rất nhiều nghĩa: Vừa là nguyên thuỷ của vũ trụ, vừa là toàn thể vũ trụ, vừa là nguyên tố của vạn vật, vừa là con đường tu dẫn những người tu theo Đạo Giáo (cả nam lẫn nữ) tới nhịp chuyển vận của vũ trụ để được trường sinh bất tử trong “vô vi".

Lão Giáo không nói gì về hôn nhân và vợ chồng, không nói gì về vấn đề yêu đương. Lão Giáo khuyên con người nên sống tiêu dao, dinh dưỡng thể xác và tâm hồn, càng hoà hợp với thiên nhiên bao nhiêu càng được hạnh phúc bấy nhiêu.

Trong sách Đạo Đức Kinh chỉ có một đoạn nói sơ qua, một cách gián tiếp, về đời sống vợ chồng. Đoạn đó như sau:

"Bởi vì đạo lớn bị bỏ nên mới có nhân nghĩa. Bởi vì sáu người thân bất hoà với nhau nên mới có người hiếu người thảo..."

“Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa. Lục thân bất hoà, hữu hiếu từ..."

Trong đoạn nầy danh từ “lục thân” nghĩa là "sáu người thân", tức là cha, con, anh, em, vợ chồng.

Lão Tử tin rằng: Dứt nhân bỏ nghĩa con người sẽ trở lại thuần lương chân chính.

Nguyễn Trãi khi về trí sĩ đã có những bài thơ chịu ảnh hưởng Đạo Giáo như bài "Côn Sơn Ca". Bài này viết bằng chữ Hán. Dưới đây xin trích dịch mấy câu đầu làm thí dụ:

Côn sơn có suối

Tiếng lạ chảy triền miên

Ta nghe như huyền cầm.

Côn sơn có đá

Mưa trải phủ rêu xanh

Ta ngồi như trên chiếu.

Trong hang có thông

Vạn lý xanh trùng trùng

Nhàn hạ ta ngã lưng.

Trong rừng có trúc

Ngàn mẫu in mấy lục

Thong dong ta dạo bước

Ngâm vịnh ở nơi đây.

.....

Sau 2500 năm, những kinh điển Phật Giáo từ phạn ngữ đến hán ngữ có nhiều vô kể. Những cuốn kinh cổ nhất được biết tới chỉ viết thành văn hàng thế kỷ sau khi đức Phật đã “nhập diệt”. Trước đó những kỷ niệm về cuộc đời và các lời thuyết giảng của Đức Phật chỉ được gìn giữ qua truyền khẩu trong 5 thế kỷ.

Tuy khởi nguyên từ Ấn Độ, Đạo Phật đã không phát triển ở xứ này, nhưng theo con đường thương mại tơ lụa di chuyển sang phương Đông, tới Tây Tạng, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, Đông Nam Á...mang màu sắc đặc thù của mỗi địa phương.

Ba bộ kinh lâu đời nhất được gọi là “Ngôi Tam Bảo” gồm có bộ “Phật Bảo”, bộ “Tăng Bảo”, bộ “Pháp Bảo". Bộ thứ nhất viết về những lời thuyết pháp của Phật còn được nhớ lại. Bộ thứ hai về những đường lối tu hành của các cộng đồng tín hữu. Bộ thứ ba gom góp những thành phần lý thuyết tản mát đó đây.

Những tư tưởng chính yếu của đạo Phật được trình bầy trong "Tử Diệu Kế" nghĩa là bốn chân lý nhiệm mầu, mà Đức Phật đã giác ngộ, đã đốn ngộ sau khi tham thiền dưới gốc cây Bồ Đề. Bốn chân lý đó là:

1- Khổ đế: Đời là bể khổ.

2- Tập đế: Nguồn gốc của đau khổ là ham muốn.

3- Diệt đế: Muốn dịêt khổ phải thắng được ham muốn.

4- Đạo đế: Con đường thắng ham muốn là con đường tu, là chiêm niệm, từ bi thờ ơ với phúc hoạ, để ra khỏi vòng luân hồi của cõi "vô thường", tới được nát bàn là nơi thinh không thanh tịnh không còn ham muốn.

Chữ "Ái" nghĩa là "yêu" được xếp vào "thập nhị nhân duyên" là một trong mười hai sự ham muốn lôi cuốn con người vào vòng luân hồi của cõi "vô thường"

Những tư tưởng này đã được nhiều nhà thơ diễn tả. Người diễn tả thâm thuý vừa gọn vừa hay là thi hào Nguyễn Du trong câu thơ:

Tu là cõi phúc, tình là dây oan. (câu số 2658)

Trong câu thơ nầy chữ tình có nghĩa là sự lưu luyến nam nữ muốn được kết tóc se tơ. Tình là dây oan, vì tình là một ham muốn mãnh liệt trói buộc con người vào đau khổ như sợi dây oan nghiệt.

Tu là cõi phúc có nghĩa là: Chỉ có con đường tu, xa lánh trần tục vui với câu kinh tiếng kệ nuôi dưỡng tính, mới gỡ thoát khỏi dây oan nghiệt của chữ tình để tới cõi phúc là nát bàn.

Nói tóm lại, vấn đề nam nữ và vợ chồng, những tư tưởng hướng đạo trong Tam Giáo thay đổi tuỳ theo mỗi đạo. Đạo Khổng coi đây là lẽ tự nhiên của trời đất và đề ra một số lề luật để đối xử với nhau giữ tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội. Đạo Lão không đặt vấn đề trong đường tu đạo tới huyền đồng với thiên nhiên. Đạo Phật xếp chữ tình vào thập nhị nhân duyên của cõi vô thường.

Như vậy, quan niệm về chữ yêu như một hướng sống có thể coi như một quan niệm rất mới trong vấn đề nhân sinh, không những cho dân tộc chúng ta. Mà còn cho cả những dân tộc chịu ảnh hưởng của Tam Giáo từ hàng ngàn năm.

CHỮ YÊU TRONG THÁNH KINH

Trái lại theo Thánh Kinh, yêu là tất cả. Trời yêu, người yêu. Đời này yêu, đời sau yêu. sống ngoài đời hay sống đường tu, hướng sống đều là yêu.

Theo Phúc Aâm, chữ "yêu" gắn liền với chữ "Thập" nhưng cũng vẫn là yêu. Yêu bất chấp đau khổ và sự chết, vì "tình mạnh như sự chết" (Ct 8,6).

Chúng ta thường nghe giảng "Thiên Chúa là tình yêu" (1 jn 4,8). Thiên Chúa và tình yêu không ai nhìn thấy. Nhưng nếu "người yêu người" chúng ta nhận thấy. Qua tình người đối với người chúng ta biết tình yêu. Và qua tình yêu, chúng ta gặp Thiên Chúa khi thấu cảm mối tình của người đối với người sở dĩ có được và bền vững là nhờ tình Thiên Chúa.

Trong những mối tình của người đối với người, mối tình mà đại đa số nhân loại có nhiều hy vọng gặp là tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng.

Thánh kinh nói gì về mối tình nầy?

Trong Cựu Ước, theo sáng Sáng Thế ngay từ khi tạo dựng ra trời đất và con người, Thiên Chúa đã chúc phúc cho sự kết hợp nam nữ được coi như có một giá trị tôn giáo độc đáo. Cả nam lẫn nữ con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa.

Người nam khi thấy người nữ đã kêu lên: "Đây là xương thịt của tôi". Do đó, người nam từ bỏ cha mẹ lưu luyến người nữ và cả hai trở thành "nhất thể" (Gn1-2), một thân xác (une seule chair).

Nhiều đấng Tiên Tri trong Cựu Ước, như Osée (1,2+), Jéùrémie (18,1 +), Isaie (1,21), Ezéchiel (16; 23)...khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Cựu Do Thái (Israel) đã sử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ.

Các tiên tri coi tình của Thiên Chúa đối với dân được chọn (Israel) cũng như tình của người nam. Một người nam vừa hiền từ chung thuỷ, vừa đòi hỏi ghen tuông. Các tiên tri cũng nói về những phản bội, chối bỏ, tà đạo của dân cựu Do Thái (Israel) được coi như người nữ bất trung. Có khi còn dùng cả danh từ nặng hơn chữ bất trung.

Nhưng dù vậy, tình yêu của Thiên Chúa cũng không dặp tắt vì Thiên Chúa yêu cho đến cùng (Jn 13, 1).

Khi nói đến tình yêu nam nữ trong Cựu Ước không thể nào không nói tới bài Diễm Ca (Cantique des Cantiques) một điệp khúc nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thuỷ.

Lời thơ là lời của người nữ được yêu (labien aimée) nói về tình của người yêu đối với mình. Theo truyền thuyết tác giả bài này là vua Salômông. Đây là một bài thơ ngụ ngôn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel giống như tình yêu nam nữ.

Bài Diễm Ca được trình bầy và sắp xếp theo những đoạn đường trở lại và những hy vọng của dân Israel, gồm có 5 bài ca, một phần mở đầu và một phần kết, xen lẫn (theo kịch thuật Hy Lạp) một vài đoạn đồng ca hoặc song ca đối đáp với người nữ.

Nhiều nhà thần học coi bài Diễm Ca như một bài thánh ca thánh nhất trong các bài thánh ca. Theo tôi bài Diễm Ca là một bài tình ca tình nhất trong các bài tình ca. Đây chỉ là một cách nói, vì theo đạo Kitô Giáo thánh và tình là một, thánh là yêu mà tình cũng là yêu.

Xin nêu làm một thí dụ ba câu đầu lời nói của người nữ được yêu (la bien aimée), để có một ý niệm về tính chất diễm tình của bài Diễm Ca diễn tả mối tình đắm say cả hồn lẫn xác. Ba câu này trích trong cuốn Bible de Jésusalem viết bằng Pháp ngữ:

"Qu’il me baise des baisers de sa bouche

Tes amours sont plus délicieuses que le vin

L’arôme de tes parfums est exquis".

(Ct 1,2-3)

Theo ấn bản Kinh Thánh mới nhất vừa được Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn thực hiện năm 1998 (trang 1231) ba câu nầy được dịch như sau:

Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi miệng chàng!

Ái ân của anh còn ngọt ngào hơn rượu.

Mùi hương anh thơm ngát.

Minh Châu dịch:

Môi tìm môi đón nụ hôn tình ái

Ngây ngất say hơn hẳn rượu ngọt bùi

Hương ai toả xác hồn xao xuyến mãi...

Vân Uyên dịch:

Đợi môi âu yếm tới hôn em

Kết tình dịu ngọt hơn bồ tửu

Ngây ngất hương người thật ấm êm...

Điểm lạ lùng của chữ yêu trong Cựu Ước là tình yêu nam nữ cả hồn lẫn xác được đặt tận đỉnh cao của tình thiên tính.

Theo Tân Ước, tình yêu nam nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa và đạt tới sự thật, khi qua hôn nhân bí tích trở thành tình yêu vợ chồng.

Trong thư gởi tín hữu thành Ê-phê-sô, thánh Phaolô gọi tình yêu vợ chồng là "huyền nhiệm lớn" (gran mystèse). Huyền nhiệm đã kỳ lạ. Huyền nhiệm lớn là kỳ lạ trên sự kỳ lạ (Ep 5,32).

Tình yêu vợ chồng được Thánh Phao Lô so sánh với tình của Chúa Kitô đối với Giáo Hội. Tình yêu vợ chồng, mà thường tình cho là trần tục, trở thành "kỳ lạ trên sự kỳ lạ" vì được coi như mối tình mầu nhiệm không bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian của "Thiên Chúa làm người" kết hợp với "nhiệm thể" của mình là Giáo Hội (Ep 5, 23-25).

Như vậy, tình yêu vợ chồng trở thành như một trong những trung tâm điểm của đức tin. Nói cách khác tình vợ chồng khi đạt tới mức “yêu" cũng là một con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc.

Theo Tân Ước, nhiều lần Chúa Kitô đã ví Nước Trời như một Tiệc Cưới và tự ví mình như chàng rễ (Mt 9,15, 22, 1-14; 25, 1-13; Ga 3, 29).

Chúa Kitô đã giảng về tính chung thuỷ gắn bó, không có gì có thể phân chia của tình vợ chồng trong hôn nhân bí tích. Theo Phúc Aâm của Thánh Mát-thêu, Chúa Giêsu đã nói: "Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ (mat 19,6).

Đối với người đời xưa cũng như đời nay, những l?i nói nầy thật không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính những môn đệ của Chúa Kitô cũng đã thốt lên: "Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn còn hơn".

Và Chúa Kitô đã trả lời: "Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu" (Mat 19, 10-11).

Để kết luận xin nêu lên một ý nghĩ vừa vui vừa hy vọng cũng như một lời cầu nguyện trong đức tin.

Như vậy, chữ yêu trong tình yêu nam nữ và vợ chồng, theo Thánh Kinh bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên ý mong muốn con người bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này qua kiếp sống phu thê và sẽ còn nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa.

Tình yêu của Thiên Chúa là như vậy. Con người lấy gì để đền đáp lại? Chỉ có yêu mới đền đáp được tình yêu.

Đó là nguồn thi hứng dẫn đến câu thơ:

...

Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai...

(Câu 14,15 bài "Con Thuyền Nhất Thể")

 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002