Đại Chúng số 108 - ngày 16 tháng 10 năm 2002

ĐỪNG HỎI TẠI SAO

Người thứ Chín biên sọan

1.-Lời nguyền - Truyền thuyết hay điều có thật đã được ghi lại:

Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh.

Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay.

Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray "cung tiến" cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)

Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới.

Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:

Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày "làm cảnh" ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.

Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...

Phải chăng lời nguyền đã bao phủ lên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương "Hy vọng" là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi.

Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn "chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá.

Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến” này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.

2.-Hiện tượng "người bay lơ lửng"

"Quá trưa, Subbayah Pullivar ra chào chúng tôi và cho biết đã thực hành yoga từ gần 20 năm. Nghi lễ lơ lửng bắt đầu. Nhà yoga Ấn Độ này đi vào một cái lều. Vài phút sau, vách lều được nâng lên, cho thấy ông đang lơ lửng giữa vòng tròn nước". Đó là lời kể của P.Y.Plunkett, một người tận mắt chứng kiến màn biểu diễn ngày 6/6/1936.

Nhiều khán giả đến gần để kiểm tra xem có sự gian dối không. Subbayah Pullivar như trong trạng thái lên đồng, bị treo trên không, cách mặt đất kho?ng 1 mét. Ông dựa vào một cây gậy, hẳn là chỉ để giữ thăng bằng. Plunkett và bạn bè đến kiểm tra chung quanh nhà yoga: chẳng có dây hay trò ma mãnh nào cả.

Sau đó, cái lều được phủ xuống và Pullivar hạ xuống đất. Plunkett chứng kiến sự hạ xuống này qua một cái khe trên vách lều mỏng. "Sau một phút, nhà yoga có vẻ lắc lư. Ông bắt đầu hạ xuống từ từ, vẫn trong tư thế nằm ngang như lúc đầu. Phải mất 5 phút để xuống đến đất. Lúc ấy, các đệ tử mang ông ra giữa khán giả, yêu cầu mọi người thử bẻ tay bẻ chân ông. Nhưng dù có nhiều người, chúng tôi vẫn không thể làm được. Subbayay Pullivar được xoa bóp bằng nước lạnh trong hơn 5 phút trước khi ra khỏi trạng thái lên đồng và cử động tay chân bình thường".

Trong nhiều trường hợp lơ lửng khác, khán giả chú ý đến chuyển động lắc lư và tư thế nằm ngang. Cảnh tượng diễn ra tại Thuỵ Sĩ, ở trường của nhà yoga Maharishi Mahesh. Một học viên môn thiền siêu việt học kể lại: "Chúng tôi lắc lư, lúc đầu chậm, sau nhanh dần. Kế đó, chúng tôi bắt đầu nhấc mình lên khỏi mặt đất. Phải thực hành bài tập trong tư thế ngồi xếp bằng. Người ta sẽ bị đau đớn nếu để hai chân buông thõng. Cú hạ xuống là một cú sốc. Vì thế cần phải ngồi trên nệm. Sau đó chúng tôi biết cách kiểm soát và bài tập trở nên thật thích thú".

Liệu một ngày nào đó tất cả mọi người có thể biết cách lơ lửng không? Theo những người học thiền siêu việt, điều đó là có thể, với điều kiện phải rèn luyện tinh thần rất tích cực.

Trạng thái bán trọng lực

Cũng có một cách lơ lửng đang được bàn cãi, là đặt một người trong trạng thái bán trọng lực. Người ấy ngồi trên ghế, chung quanh là 4 thí nghiệm viên. Bốn người này xếp hai bàn tay trên đầu người kia (nhưng không chạm nhau), rồi tập trung tư tưởng trong 15 giây. Sau đó, họ nhanh chóng đặt ngón trỏ lên khuỷu tay và đầu gối của người ngồi trên ghế. Thế là người ấy được nâng khỏi mặt đất. Làm sao giải thích hiện tượng đó? Sự tập trung tư tưởng của 4 người có dự tính chính xác liệu có thể giải phóng một sức mạnh bí ẩn của nghị lực, giúp thoát khỏi các định luật của trọng trường không? Nhiều câu hỏi chưa có lời giải rõ rệt.

Bennett là nhà sư. Ông nhẹ đến mức có thể tự mình nâng lên như một chiếc lá, tựa như đã thoát khỏi trọng lực. Tuy nhiên, hiện tượng lơ lửng dường nhưng chẳng có lợi bao nhiêu: đối tượng thường chỉ lên được 1-2 m là tối đa. Nhưng biết đâu các dân tộc thời cổ đại đã có "chìa khoá" cho một khả năng bay bổng mạnh hơn. Như thế, họ có thể thực hiện những công trình vĩ đại, chẳng hạn như các hình vẽ trong sa mạc Nazca ở Peru mà người ta chỉ có thể thấy rõ từ trên cao. Nhiều truyền thuyết của người Celte cũng kể về các pháp sư có khả năng bay được. Phải chăng đó là sự hoá thân của linh hồn, hay là sự lơ lửng thật sự của cơ thể.

Trong nhiều ngoại lệ hiếm hoi, sự lơ lửng dường như có liên quan đến một trạng thái đặc biệt, tiếp thu được sau một quá trình luyện tập lâu dài. Lúc ấy, cơ thể bất chấp các định luật hấp dẫn thông thường nhờ một sức mạnh bí ẩn. Năm 1657, một thiếu niên Anh 12 tuổi, Henry Jones, đã đột ngột bay lên đến trần nhà, đặt hai bàn tay lên trần. Hiện tượng này chỉ kéo dài trong 1 năm, và sau, cậu ta mất khả năng đó.

3.-Ngủ lịm hàng chục năm - một hiện tượng chưa được giải thích:

Do bị tưởng nhầm là đã chết, cô bé Nazira Rustemova (4 tuổi, người Kazakstan) từng bị chôn sống. Được đưa ra khỏi mộ, Nazira chìm vào một giấc ngủ dài 16 năm rồi mới đây đột nhiên tỉnh dậy. Cơ thể của cô (vốn thay đổi rất ít trong thời gian hôn mê) bỗng lớn lên từng ngày để nhanh chóng trở thành cơ thể một phụ nữ trưởng thành.

Đó là một trong những trường hợp mắc chứng hôn thụy, cho đến nay vẫn là một bí ẩn đối với khoa học. Những người bị chứng hôn thụy có thể ngủ hàng tháng trời, thậm chí vài chục năm. Trong thời gian đó, cơ thể họ hầu như không có sự thay đổi. Sau khi tỉnh giấc, quá trình trao đổi chất được tăng tốc khiến cho cơ th? lớn nhanh trông thấy, y như trong truyện cổ tích. Ở một số bệnh nhân, còn xuất hiện nhiều khả năng kỳ lạ mà trước khi hôn mê họ chưa hề có. Nazira Rustemova là một trường hợp điển hình.

Lúc mới sinh, Nazira là một cô bé khỏe mạnh, cơ thể phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác. Gần đến sinh nhật lần thứ 4, đột nhiên cô bé bị đau đầu dữ dội, không thuốc nào làm giảm được. Sau mỗi cơn đau, cô bé lại lịm đi. Một buổi sáng, khi vào đánh thức con, cha mẹ Nazira thấy cô bé nằm bất động trên giường. Các bác sĩ ở bệnh viện huyện khẳng định Nazira đã chết mà không rõ nguyên nhân.

Sau khi mai táng cho Nazira, ông và bố cô bé nằm mộng thấy có người bảo rằng Nazira chưa chết mà đã bị chôn sống. Người cha trở lại nghĩa địa, lật ván áo quan lên để kiểm tra. Ông sửng sốt nhận thấy xác con gái đã nằm sát vào một góc chứ không ở vị trí chính giữa như lúc hạ huyệt. Lớp vải liệm quấn quanh cô bé bị nhàu và đôi chỗ có vết cào xước. Ông vội vàng bế con về nhà.

Hai tuần liền, gia đình Nazira tìm mọi cách để đánh thức cô bé nhưng vô hiệu. Khi biết tin, Bộ Y tế Liên Xô đã chuyển Nazira lên Matxcơva để nghiên cứu. Cô bé được đặt trong lồng kính suốt 16 năm cho đến ngày bừng tỉnh.

“Suốt thời gian đó, tôi không hề ngồi dậy lần nào" - Nazira nhớ lại - "Mặc dù nằm bất động nhưng tôi vẫn nhận biết được mọi chuyện xảy ra chung quanh mình. Thậm chí có lần tôi còn ngửi thấy hương thơm thoang thoảng đặc trưng của vùng thảo nguyên quê tôi. Một hôm, tôi nghe thấy tiếng chuông điện thoại réo rất lâu. Mãi mà không có ai nhấc máy; thế là tôi quyết định đứng dậy để nói chuyện điện thoại...”

Sau khi tỉnh dậy, Nazira được các bác sĩ giữ lại để tiếp tục kiểm tra sức khỏe trong mấy tháng rồi mới về nhà.

Trong 16 năm ngủ lịm, người Nazira chỉ dài thêm 30 cm mặc dù vẫn tiếp nhận thức ăn qua hệ thống ống dẫn nối với dạ dày. Tuy nhiên, khi tỉnh lại, cơ thể cô phát triển nhanh như thổi. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ một cô bé, Nazira đã có một cơ thể phát triển như mọi cô gái 20 tuổi khác.

Trong mấy ngày đầu, Nazira đã phục hồi khả năng khẩu ngữ, có thể giao tiếp với mọi người mà không quên từ nào. Thậm chí, cô còn nói được 4 ngoại ngữ, trong đó có tiếng Latinh (một ngôn ngữ hiện rất ít người biết) và tự nhấc mình khỏi mặt đất nhẹ nhàng như bay. Tuy nhiên, sau đó mấy năm, những khả năng này biến mất. Nazira quên cả tiếng mẹ đẻ (tiếng Kazakstan), chỉ còn nhớ duy nhất tiếng Nga.

5.-Bia có thể làm tăng lượng cholesterol "tốt" ở phụ nữ lớn tuổi...

Theo một nghiên cứu nhỏ của Trung tâm Nghiên cứu Thực phẩm và Dinh dưỡng tại HòaLan, uống bia vừa phải có thể giúp tăng lượng cholesterol “tốt” (HDL) ở những phụ nữ lớn tuổi khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Sau 3 tuần tham gia cuộc nghiên cứu, lượng cholesterol HDL đã tăng 12% ở những đàn ông uống 4 ly bia và những phụ nữ uống 3 ly trong bữa ăn tối. Nghiên cứu trước đây đã cho thấy chỉ cần tăng 2% lượng HDL cũng đủ để làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Tuy nhiên, nghiên cứu trên chỉ mới tiến hành trong phạm vi nhỏ với 9 phụ nữ tuổi từ 49-62 và 10 đàn ông tuổi 45-64. Tiến sĩ Henk F.J. Hendriks / U.o.N cho biết cần phải tiến hành thêm các cuộc nghiên cứu lớn hơn để khẳng định khám phá trên.

6.- Thay đổi gene thình lình trong người Vuợn (Tiền Sử) giúp người biết nói.

Trong quá trình tiến hoá từ vượn, gene ngôn ngữ FOXP2 của người đã trải qua hai quá trình thay đỗi thình lình nhưng vô cùng quan trọng. Có lẽ nhờ đó mà loài người dần phát triển được một hệ thống phát âm phức tạp, cho phép họ diễn đạt sự vật và hiện tượng. Nghĩa là nói được và hiễu được với nhau...KHoa học ghia gọi Gene này là "FOXP2"

Hiện nay, nhóm nghiên cứu của Svante Paebo, Viện Max-Planck về nhân chủng học tiến hoá ở Leipzig (Đức), đã phân tích gene ngôn ngữ FOXP2 ở người, vượn người và chuột. So sánh cho thấy, giữa gene FOXP2 của người và chuột có 3 đoạn khác nhau rất nhỏ; còn giữa người và vượn người có 2 đoạn khác nhau. Theo các nhà khoa học, sự khác biệt rất nhỏ trong gene ngôn ngữ giữa người, vượn người và chuột cho thấy, khi chuột và vượn người tách ra từ một nguồn động vật, thì xảy ra đột biến gene FOXP2 lần thứ nhất; và khi người và vượn người tách ra khỏi nhau, thì xuất hiện thêm 2 lần đột biến nữa. Có lẽ cách nay khoảng 200.000 năm, gene FOXP2 ở người đã hoàn thiện như ngày nay, và con người bắt đầu phát triển khả năng ngôn ngữ từ đó.

Việc tìm ra sự khác biệt trong gene FOXP2 của người so với gene của các loài khác có thể giúp giới khoa học đưa ra những phỏng đoán chính xác hơn về thời điểm hình thành ngôn ngữ.

Nghĩa là từ khi Tạo Hóa tạo ra động vật thì có sự thay đổi quan trọng về Gene. Lần đầu thì từ thực vật chuyển sang động vật, gene biến đổi rất ít. Nhưng nhờ biến đổi này mà thực vật khác động vật. Cho đến khi động vật hoàn thiện nhất là loài Khỉ hay có người còn gọi là loài Vượn thì sự độtt biến này vô cùng quan trọng, nghĩa là khỉ (vượn) và người khác nhau từ đây. Nhưng lúc này thì người (gần giống ngừơi nhất) vẫn chưa nói được rõ ràng cho nhau hiểu. Đến một lần đột biến thay đổi gene nữa thì ngừơi Tiền sử này có thể hiểu nhau. Đó là nhờ Gene mang tên Khoa học là "FOXP 2".

7.-Người sinh vào mùa thu sống thọ hơn

Sử dụng các dữ liệu điều tra dân số của hơn 1 triệu người ở Áo, Đan Mạch và Australia, các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu nhân chủng học Max Planck,/Đức, đã tìm ra mối liên quan giữa tháng sinh với tuổi thọ của những người sống trên 50 tuổi.

Ở Áo, những người sinh trong mùa thu (tháng 10 - 12) trung bình sống thọ thêm 7 tháng so với những người sinh vào mùa xuân (tháng 4-6). Tại Đan Mạch và Australia, chênh lệch tuổi thọ giữa hai nhóm là khoảng 4 tháng. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng, mùa sinh quyết định khẩu phần thức ăn của các bà mẹ trong thời kỳ mang thai, và nguy cơ viêm nhiễm của đứa trẻ. Do đó, nó quyết định tới sức khỏe và tuổi thọ khi về già.

8.- Cẩn thận khi xương... yếu!

Cơ thể con người có khoảng 1 - 1,2 kg canxi. 99% canxi nằm trong xương và răng, dưới dạng kết hợp với lân (phốtpho) và những nguyên tố khác.

Tuy là mô cứng, xương và răng có hoạt tính cao và giữ được khả năng “đổi mới”: mỗi ngày có thể có từ 250 -1.000 mg canxi ra - vô từ xương, nhất là ở cấu trúc "bó" hay "cột" phosphat calcium nằm ở đầu các xương ống, coi như một hình thức dự trữ luôn luôn huy động được. 1% Ca còn lại nằm trong các mô mềm và hoà tan trong máu.

Những nguy cơ khi thiếu Calci?

Người ta chỉ phát hiện ra những triệu chứng thiếu Ca sau nhiều năm ăn thiếu Ca là vì bất cứ lúc nào, cơ thể cũng có thể huy động Ca từ xương để giữ được nồng độ Ca bình thường trong máu - cung ứng cho mọi cơ quan “mềm” khác. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra bệnh loãng xương. Khi chụp hình X - quang xương, phát hiện ra loãng xương thì xương cũng đã phải mất đi 30 - 40 % vốn Ca dự trữ rồi. Những người phải nằm một chỗ bất động trong thời gian kéo dài như do chấn thương, bệnh kinh niên phải nằm liệt giường, gãy xương bó bột... chẳng hạn, thường tăng bài xuất Ca, dẫn tới bilan âm tính (tức là lượng canxi đưa vào xương ít hơn lượng canxi huy động ra).

Bệnh còi xương cũng hãy còn thấy ở những đứa trẻ thiếu vitamin D (cũng có khi thiếu cả Ca và P), ở trong nhà ít được cho ra ánh sáng thiên nhiên.

Bệnh nha chu là biểu hiện đầu tiên khi xương có vấn đề. Có những thanh niên ngay ở tuổi 30 - 40 đã rụng răng (từ vài cái cho đến toàn bộ hàm răng) vì xương hàm bị tiêu đi và nướu không giữ được răng nữa.

Bệnh loãng xương rất phổ biến ở tuổi xế chiều cho cả đàn bà lẫn đàn ông. Người lớn tuổi hay bị còng lưng do đốt cột sống bị lún, ép - giảm chiều cao so với lúc còn thanh niên - dẫn tới đau lưng, đau khớp háng, rất dễ bị gãy xương hông và cổ tay. Bệnh này do nhiều nguyên nhân kết hợp: giảm nồng độ hormon trong máu, thiếu vận động, và thiếu vốn dự trữ Ca trong xương.

Để phòng bệnh loãng xương các bác sĩ đều khuyên nên nạp canxi vào cơ thể ngay từ khi còn trẻ. Theo các bác sĩ thì phụ nữ ngay từ tuổi 30 nên nạp vào mỗi ngày 1000 mg Ca, và sau khi mãn kinh thì nên đảm bảo cung cấp1.200 -1.500 mg Ca.

Cách phòng tránh hợp lý nhất là ngay từ khi còn trẻ tuổi hãy quan tâm và có một thói quen dinh dưỡng tốt, đừng đợi đến lúc thật sự mắc bệnh mới bổ sung canxi như uống thuốc chữa bệnh thì sẽ không hiệu quả.

Ngoài ra việc thiếu canxi còn dẫn đến một số triệu chứng co giật, nguyên nhân là do hạ canxi-huyết nhưng ít khi được xét nghiệm.

Bổ sung Calcium ra sao?

Khuyến cáo mới nhất ở Mỹ về lượng canxi nên nhập vào mỗi ngày đã được điều chỉnh như sau:

Trẻ em và thiếu niên

• 1-10 tuổi: 800 -1.200 mg

• 11 - 24 tuổi: 1.200 -1.500 mg

Phụ nữ

• Phụ nữ có thai và cho con bú: 1.200 -1.500 mg

• 25 - 49 tuổi (tiền mãn kinh): 1.000 g

• 50 - 64 tuổi (sau mãn kinh): có thêm estrogen 1.000 mg

• 50 - 64 tuổi (sau mãn kinh): không thêm estrogen 1.500 mg

• 65 tuổi: 1.500 mg

Đàn ông

• 25 - 64 tuổi: 1.000 mg

• 65 tuổi: 1.500 mg

Khuyến cáo của Viện dinh dưỡng

• 300mg cho nhũ nhi < 6 tháng

• 500 mg từ 6 tháng đến 9 tuổi.

• 700 mg từ 10 -18 tuổi cho cả con trai, con gái,

• 600 mg riêng cho nữ thiếu niên 16 -18 tuổi.

• 500 mg cho nguòi lớn trưởng thành nam và nữ

• 1.000 mg cho phụ nữ có thai và cho con bú.

Ở Việt Nam còn có các nguồn thức ăn khác cung cấp canxi cho cơ thể như các loại hải sản: ngao, sò, ốc, cua... Tuy nhiên các loại thức ăn trên không thể hiện diện trong thực đơn hằng ngày vì thế bạn có thể dùng sữa, các sản phẩm từ sữa hoặc uống canxi bổ sung.

Bổ sung Calcium hợp lý

• Vitamin D cần thiết để hấp thu canxi ở ruột non: hiện nay các hiệu sữa đều được bổ sung một lượng vitamin D phù hợp để đảm bảo sự hấp thu canxi trong cơ thể. Chỉ còn cần nhắc mỗi ngày nên ra ngoài trời chừng ½ giờ hưởng chút tia cực tím trong ánh sáng thiên nhiên vì có tia cực tím rọi vào da, vitamin D mới được họat hóa.

• Các họat động chân tay như đi bộ, tập thể dục, đạp xe đạp, chơi thể thao chừng ½ giờ đến 1 giờ mỗi ngày cũng rất tốt để cơ bắp làm việc và giữ được khối lượng thì xương mới không bị "loãng", ngừa được nguy cơ hay bị gãy xương sau tuổi mãn kinh.

• Một nếp sống lành mạnh hạn chế việc sử dụng thuốc lá, café, bia, rượu cũng sẽ góp phần phòng ngừa bệnh loãng xương.

8.- Tuợng Me Maria khóc tại Úc.

Sau đây là nguyên bản văn của đài BBC bằng anh ngữ đến các bạn vụ hy hữu này. Đài BBC không nói chơi...

Mystery of Australia'sweeping Madonna. Scientists in Australia have failed to find the source of tears flowing from the eyes of statue of the Virgin Mary. The fibreglass statue, display at a Catholic church in Perth, Western Australia, started weeping fragrant liquid in March.

Thousands of pilgrims have visited the church since the statue's owner revealed the news last week. Sceptics are sure the statue is a fake, but no-one has yet bee able to prove it.

Devout Catholic Patty Powell, 47, paid $82 (Aus $150) for the statue in Bangkok eight years ago.

The statue, which has been dripping a rose-scented oil-like substance, has been attracting visitors from as far away as the east coast.

'Very tricky' Perth Archbishop Barry Hickey has said he does not think trickery is involved.

"When I went to see the statue for myself a couple of weeks ago I had misgivings and was sceptical, but frankly I was impressed," he told AFP news agency. But scientists still hope to prove the statue is a fake – if the owner will let them.

Curtin University X-ray expert Rob Hart could find no cavity or sign of fluid inside the statue, although he reported an unexplained mass at the statue's feet.

Murdoch University chemist Doug Clarke, who tested the oily liquid, told reporters he the someone had been "very tricky", but he could find no proof the statue was fake.

He said the tears were a vegetable oil, probably olive, scented with a rose-oil mix, but a cat-scan would show definitively whether there was oil inside. However the owner is reportedly satisfied the statue is genuine and may refuse to submit it for more tests.

"The smell was hauntingly familiar, as a a local scent, but none of us could tell where it came from," said Mr Clarke. Parish priest Finbarr Walsh said the statue was giving great comfort to the sick including a dying priest who was anointed with the oily tears on Wednesday.

"Two hours later he was sitting up in bed as cheerful as anything," he said. The statue is being shown for a few hours a week at Our Lady of Lourdes church, in the Perth suburb of Rockingham.

Tạm dịch là: một bức tượng Đức mẹ tại Rockingham, Úc nhỏ lệ ngày đêm và các khoa học gia tại Đại học Úc dùng máy X Ray chiếu vào tượng xem có gì gian dối hay không, thì không thấy gì. Nhiều ngàn tín đồ đến cầu nguyện. Giọt nuớc mắt Đức Mẹ là loại dầu olive mà nơi địa phương có bán. Các đài Truyền tin trên thế giới đến đây chứng kiến chuyện hy hữu này.

9- "Tên miền" trên Internet là gì?

Khác với cách tổ chức theo các cấp (nội hạt, liên tỉnh, quốc tế) của một mạng viễn thông, mạng Internet tổ chức chỉ có một cấp, các mạng máy tính dù nhỏ, dù to khi nối vào Internet đều bình đẳng với nhau. Do cách tổ chức như vậy nên trên Internet có cấu trúc địa chỉ và cách đánh địa chỉ đặc biệ

Địa chỉ Internet (IP) đang được sử dụng hiện tại là (IPv4) có 32 bit chia thành 4 Octet (mỗi Octet có 8 bit, tương đương 1 byte), cách đếm đều từ trái qua phải bit 1 cho đến bit 32, các Octet tách biệt nhau bằng dấu chấm (.) và biểu hiện ở dạng thập phân đầy đủ là 12 chữ số.

Ví dụ một địa chỉ Internet: 146. 123. 110. 224 (Địa chỉ IP tương lai được sử dụng là IPv6 có 128 bit dài gấp 4 lần của IPv4. Version IPv4 có khả năng cung cấp 232 = 4.294. 967.296 địa chỉ. Còn Version IPv6 có khả năng cung cấp 2128 địa chỉ). Do người sử dụng rất khó nhớ được địa chỉ dạng chữ số dài như vậy, nên cạnh địa chỉ IP bao giờ cũng có đi kèm một cái tên mang một ý nghĩa nào đó, dễ nhớ cho người sử dụng, gọi là "tên miền".

Ví dụ: tên miền máy chủ web của FPT HCM có địa chỉ là 203.162.45.130, tên miền là hcm.fpt.vn. Thông thường, người sử dụng Internet chỉ cần nhớ tên miền là truy nhập được.

Vậy tên miền (domain name) là một danh từ dịch theo kiểu nghĩa của từng từ một (word by word), thực chất là sự nhận dạng vị trí của một máy tính trên mạng Internet, hay nói cách khác tên miền là tên của các mạng lưới, tên của các máy chủ trên mạng Internet.

* Cấu tạo của "tên miền"

Tên miền bao gồm nhiều thành phần cấu tạo nên cách nhau bởi dấu chấm (.) ví dụ hcm.fpt.vn là tên miền máy chủ web của FPT. Thành phần thứ nhất "hcm" là tên của máy chủ, thành phần thứ hai "fpt" thường gọi là tên miền mức hai (second domain name level), thành phần cuối cùng "vn" là tên miền mức cao nhất (top level domain name).

Tên miền mức cao nhất bao gồm các mã quốc gia của các nước tham gia Internet được quy định bằng hai chữ cái theo tiêu chuẩn ISO–3166, như Việt Nam là VN, Anh là UK... và 7 lĩnh vực dùng chung gồm:

.COM: Thương mại (Commercial)

.EDU: Giáo dục (Education)

.NET: Mạng lưới (Network)

.INT: Các tổ chức quốc tế (International Organizations)

.ORG: Các tổ chức khác (Other Organizations)

.MIL: Quân sự (Military, dùng ở Mỹ)

.GOV: Nhà nước (Government)

Tên miền mức hai: Đối với các quốc gia nói chung tên miền mức hai này do tổ chức quản lý mạng của quốc gia đó định nghĩa, có thể định nghĩa khác đi, nhiều hơn hay ít đi nhưng thông thường các quốc gia vẫn định nghĩa các lĩnh vực kinh tế, xã hội của mình tương tự như 7 lĩnh vực dùng chung nêu trên.

Về cơ bản, từ mức thấp nhất cho đến mức cao nhất, mỗi một mức tên miền đều có các máy chủ quản lý tên miền (dns) quản lý tên, địa chỉ trong mức ấy, trong khu vực ấy. Một thông tin về địa chỉ hay tên miền mà dns không trả lời được nó sẽ hỏi lên dns cấp cao hơn. Quản lý tên miền bao giờ cũng phải cần 2 máy chủ dns, máy chính gọi là Primary dns và máy phụ là Secondary dns làm nhiệm vụ dự phòng, thông tin chứa trong 2 máy này phải giống hệt nhau. Thông tin được lưu giữ, cập nhật, thay đổi trong máy chính, theo định kỳ thông thường là 3 giờ một lần máy phụ sẽ hỏi máy chính, nếu có thông tin mới hay thông tin đã bị thay đổi trong máy chính, máy phụ sẽ tự động cập nhật về.

10.-ÁNH NẮNG VÀ SỨC KHỎE:

Trong những ngày hè, nhiều gia đình cùng bạn bè thường tổ chức những chuyến đi nghỉ bên bờ biển, hưởng bầu không khí trong lành cũng như ánh nắng ban mai ấm dịu. Nhưng có lẽ không thừa nếu bạn có thêm những hiểu biết về lợi ích cũng như tác hại của ánh nắng đối với sức khỏe.

Trước tiên cần khẳng định ánh nắng mặt trời là yếu tố rất cần thiết cho quá trình hình thành và phát triển sự sống của thực vật, động vật và cả con người.

Khi cơ thể tiếp nhận ánh nắng, các quang tử (photon) sẽ tạo nên những hiệu quả tốt lành cho các phân tử tế bào da cũng như cho cả cơ thể tăng thêm năng lượng nhờ những tia hồng ngoại, tổng hợp được vitamin A nhờ các tia cực tím B, tác động chống trầm uất nhờ khung cảnh môi trường quang sáng... Nhưng đồng thời ánh nắng cũng gây những tác hại trong khoảng thời gian sớm hay muộn và con người cần biết để ngăn chặn.

Mặt trời là một khối hạt nhân nóng sản sinh các sóng điện từ, bao gồm những mảnh năng lượng gọi là photon. Xếp theo thứ tự năng lượng giảm dần, các sóng này được phân loại thành: bức xạ ion hóa (các tia vũ trụ, gamma và X), bức xạ quang học và các sóng Hertz (vi sóng, sóng radar, tivi, radio). Nhờ tác động "lọc" của tầng ozon quyển bình lưu, chỉ một phần nhỏ của các bức xạ trên chạm tới trái đất. Thật vậy, tầng ozon hiện diện ở độ cao 15-35km đã ngăn chặn các bức xạ ion hóa và các bức xạ có chiều dài sóng rất ngắn (gồm tất cả những tia cực tím C và một phần các tia cực tím B). Đây là một lá chắn hữu hiệu bảo vệ sự sống trên hành tinh chúng ta và rõ ràng những biến đổi ở đó đều gây những rối loạn về quang - khí hậu toàn cầu rồi tác động mạnh đến sức khỏe con người. Lượng ozon chỉ giảm thiểu 5% cũng làm tăng tới 10% lượng các tia cực tím B trên bề mặt trái đất, tạo nên những hậu quả khó lường về suất độ một số bệnh như ung thư da, đục thể thủy tinh và tình trạng miễn nhiễm.

Khi tiếp cận da, bức xạ quang học bao gồm 3 nhóm:

1. Bức xạ cực tím, mắt người không nhìn thấy được và được phân chia thành:

w Tia cực tím A có chiều dài sóng lớn (320-400nm), có khả năng tạo năng lượng thấp, phần lớn có thể xuyên qua lớp sừng da nhưng chỉ có khoảng 20-30% đi tới lớp bì sâu. Chính những tia này có vai trò làm da đỏ nâu (khi phơi nắng) và tạo tổng hợp vitamin D, vì vậy đã được sử dụng trong điều trị.

w Tia cực tím B có chiều dài sóng trung bình (280-320nm), có khả năng tạo năng lượng cao, phần lớn (70%) bị lớp sừng của da ngăn chặn và khoảng 10% xuyên tới lớp bì da, chính những tia này làm cháy da và gây say nắng.

w Tia cực tím C có chiều dài sóng rất nhỏ (280nm).

Các tia cực tím (nhất là tia B) có tác động gây ức chế tình trạng miễn nhiễm tại chỗ và toàn thân, làm giảm thiểu những phản ứng quá mẫn khi tiếp xúc. Chính tác động ức chế miễn nhiễm này có thể làm bộc phát nhiều bệnh da vào mùa hè (eczema, vẩy nến...) hoặc khơi nguồn cho loại ung thư do bức xạ quang học.

2. Ánh sáng mắt người nhìn thấy được (400-800nm) và qua lăng kính sẽ tách thành nhiều sắc màu: tím, chàm, lam, lục, vàng, cam và đỏ.

3. Tia hồng ngoại (800-5.000nm) đi xuyên qua lớp thượng bì, lớp bì để tới lớp hạ bì rồi được các dịch lỏng hấp thụ và sản sinh sức nóng.

Thế bức xạ mặt trời có biến đổi về lượng và chất không? Câu trả lời là có. Bức xạ này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như:

Thời điểm trong ngày: lượng tia cực tím đạt mức tối đa khi mặt trời ở thiên đỉnh (gi?a trưa). Về mùa hè, khoảng 30% năng lượng tia cực tím tỏa lan ở thời gian 13-15 giờ. Khả năng ánh nắng gây ban đỏ (đo bằng quá trình hình thành một ban đỏ: erythema) thường nhỏ hơn 1 liều ban đỏ tối thiểu (LBĐTT) trong một giờ đồng hồ ở thời điểm trước 11 giờ hoặc sau 17 giờ. Nhưng LBĐTT là gì? Đó là liều bức xạ mặt trời nhỏ nhất đủ gây một vùng ban đỏ có giới hạn rõ rệt.

Hoạt động nghề nghiệp: một người làm việc trong phòng kín sẽ nhận được khoảng 3% lượng tia cực tím từ môi trường chung quanh, nhưng người làm việc ngoài trời có thể chịu tới 25%-30% lượng tia cực tím, nghĩa là cao gấp 10 lần.

Mùa: Năng lượng gây ban đỏ thường tối đa vào quãng tháng 7-8.

Vĩ tuyến: Quá trình khí hậu hấp thu các tia cực tím càng giảm thiểu khi bức xạ càng thẳng đứng (đường đi ngắn nhất). Như vậy, tác động “đốt cháy” của tia cực tím sẽ tăng gấp 5 lần khi di chuyển từ vùng Bắc châu Âu đến vùng nhiệt đới.

Độ cao: Lượng tia cực tím tăng 4% mỗi lần độ cao tăng 300 mét (ở độ cao 3.000 mét, lượng này lớn hơn khoảng 40% so với độ cao mặt biển).

Mây mù và mức ô nhiễm khí quyển: Đều có tác động đến quá trình dẫn truyền các tia cực tím. Bầu trời ít mây thường để lọt qua 2/3 lượng các tia cực tím, còn trời dày đặc mây chỉ để lọt qua 1/3 lượng đó. Khi trời ít mây, vào giữa trưa, lượng tia cực tím B nhiều hơn là khi trời quang vào lúc chiều. Bụi khói bay theo gió trên các đô thị ô nhiễm làm giảm thiểu mức độ sáng cũng như các tia cực tím A nhưng ít ảnh hưởng đến các tia cực tím B. Những đám hơi nước lơ lửng trong mây làm giảm thiểu phần hồng ngoại nhưng ít tác động đến phần cực tím.

Tình trạng phản chiếu từ bề mặt của đất: luôn biến đổi tùy thuộc vào loại bề mặt. Các dạng bề mặt khác nhau sẽ phản chiếu khác nhau:

Bề mặt phủ tuyết: Tỷ lệ bức xạ lan tỏa ngược là 50-90, bề mặt cát: 15-25, mặt nước biển nhiều sóng: 20, mặt bể bơi phẳng lặng: 10, mặt ruộng đồng: 4, thảm cỏ xanh: 0,5-4, mặt đường rải nhựa xám: 3. Mặt nước phẳng lặng vẫn để lọt qua 90% lượng các tia cực tím và 40% trong số đó vẫn hiện diện ở độ sâu 50cm. Vì vậy những người ưa thích môn lặn sâu vẫn có thể bị say nắng nếu hoạt động kéo dài, đặc biệt khi cơ thể chìm trong làn nước mát có thể làm ức chế dấu hiệu tiêu hao năng lượng.

Khung kính: không ngăn chặn hết các tia cực tím A và B. Kính cửa sổ dày 3mm có thể ngăn chặn 97% lượng bức xạ tia cực tím B nhưng chỉ giới hạn được 15% bức xạ cực tím A, khung kính cửa ô tô ngăn chặn 90% lượng tia cực tím B và 30% lượng tia cực tím A.

Chỉ số cực tím: Giống như bậc thang định lượng sức gió, một bậc thang ghi nhận lực bức xạ cực tím của ánh nắng mặt trời đã được các nhà y học xác định: đó là chỉ số cực tím, quy định từ 1-15 tùy thuộc vào vị trí địa lý, thời gian (tháng trong năm, giờ trong ngày). Ở một số quốc gia, trong bảng thông báo thời tiết thường có ghi rõ chỉ số cực tím nhằm giúp du khách trên bãi biển tự bảo vệ chống nguy cơ bị say nắng. Những con số sau đây cho thấy mối liên quan giữa chỉ số cực tím (CSCT) với thời gian phơi nắng (TGPN) có nguy cơ gây say nắng:

- (CSCT) 1-2, sức nắng yếu, (TGPN) trên 1 giờ.

- (CSCT) 3-4, sức nắng trung bình, (TGPN) 40 phút.

- (CSCT) 5-6, sức nắng mạnh, (TGPN) 30 phút.

- (CSCT) 7-8, sức nắng rất mạnh, (TGPN) 20 phút.

- (CSCT) 9-10, sức nắng cực mạnh, (TGPN) 15 phút.

Sau một thời gian dài nghiên cứu, các nhà y học đã có thể trả lời câu hỏi: ánh nắng đã tác động theo những cơ chế nào? Các photon tia cực tím, tùy thuộc vào chiều dài sóng, luôn được những phân tử "ái sắc" (chromophore) hiện diện trên da hấp thụ. Sau khi bị "hoạt hóa", các phân tử này liền biến đổi cấu trúc và thiết lập những liên hệ với những đại phân tử kế cận, đồng thời giải phóng những sản phẩm quang học, sau đó truyền tải năng lượng vừa mới nhận được tới các phân tử kề bên để tạo nên những vật thể phản ứng với oxygen, còn gọi là các gốc tự do. Các gốc này là những phân tử cực mạnh luôn có tác động oxy hóa nhiều phân tử sinh học, từ đó làm thay đổi các chức năng sinh học của cơ thể.

Các photon có năng lượng mạnh nhất (thường là các tia cực tím B) luôn có tác động độc hại trực tiếp đến những thành phần cấu trúc tế bào. Còn tia cực tím A chỉ gây độc hại gián tiếp qua các gốc tự do. Ảnh hưởng độc hại có thể tác động tới những điểm đích sau đây: chất acid deoxyribonucleic, acid ribonucleic (làm biến đổi vật liệu di truyền, gây biến dị, làm rối loạn quá trình tổng hợp protein), các màng bào tương, màng nội bào (đều bị phá vỡ, kèm giải phóng các chất gây biến dị), một số acid amin (làm biến chất các protein và enzyme). Tất cả những tác động xâm hại này nếu kéo dài sẽ làm tế bào bề mặt da dần dần già nua, thoái hóa và có thể gây ung thư.

Vậy cơ thể con người có cách gì để tự bảo vệ không? Xin trả lời là có. Các tế bào da có những hệ thống bảo vệ rất căn bản và phức tạp gồm các enzyme kháng oxy hóa, các gốc bẫy diệt những gốc tự do (như vitamin C, vitamin E, beta caroten, glutathion, acid uric...). Tiếp sau những bức xạ tia cực tím và hiện tượng giải phóng các gốc tự do, thoạt tiên có sự đáp ứng thích nghi của các hệ thống kháng oxy hóa. Nhưng nếu những bức xạ vẫn tiếp diễn, các gốc tự do hình thành quá nhiều sẽ hủy hoại cấu trúc da.

Như vậy, ánh nắng (cùng với những tia cực tím) luôn có những tác động sinh học đến da, tác động này có thể ngắn hạn (gây đỏ da, say nắng) hoặc dài hạn (da bị thoái hóa, ung thư hóa...) Chúng ta cần hiểu biết đầy đủ để thích ứng và tự bảo vệ chống lại các yếu tố quang-khí hậu gây hại cho sức khỏe.

 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002