Đại Chúng số 115 - ngày 1 tháng 2 năm 2003

Thư tòa soạn

Thế giới & bình luận

Lan Ranh Quoc Cong

1001 chuyện nhớ quên

Đọc báo dùm các bạn

Kich Mot Hoi Tao Quan Qui Mui

Ve Viet Nam Van Hai

Tet Nguyen Dan Viet Nam

Nhan Dam Xuan Nam De

Dau Nam Qui Mui Noi Ve Lich

Nam Moi Noi Ve Cac Hien Tuong

Nam Mui Noi Chuyen Con De

Cong Nghe Phuc Vu Chien Tranh

Van Con Mua Xuan

Xuan Qui Mui-Xuan Cau Nguyen Phuong Du

Vũ trụ & Con người

Hoa No Vuon Le

Lieu Nuoc Trang Co

Nấu ăn ngon cho chàng

Trang thơ

Giai Thoai Van Chuong Hien Dai

Sua Ten Tac Pham Cua Nguoi Qua Co

Nhung Tac Dong Van Hoa

A KY OPPONENT LIVES IN ‘EXILE’ IN WASHINGTON

CƠNG NGHỆ PHỤC VỤ CHIẾN TRANH

VỚI CÁC LOẠI VŨ KHÍ HIỆN ĐẠI CỦA HOA KỲ

Lê Chánh Thiêm

Theo đà tiến bộ của con người, những phát minh, phát kiến trong khoa hoc, cơng nghệ...ngày càng nhiều và được áp dụng trong mọi lãnh vực. Tuỳ theo nhu cầu, mỗi phát minh đem lại một giá trị. Riêng trong nhu cầu chiến tranh, cuộc chiến một mất một cịn, các tiến bộ khoa học được đem áp dụng một cách triệt để. Dĩ nhiên sẽ mang lại kết quả cho quốc gia nào áp dụng kỹ thuật cơng nghệ, khoa học,...nếu cĩ cuộc đối đầu xảy ra.

Kể từ ngày cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, nhất là sau vụ khủng bố ngày 11-9-2002 tại Hoa Kỳ, cuộc đối đầu ngày nay giữa Phương Tây, dẫn đầu là Hoa Kỳ với các thế lực khủng bố quốc tế đang đến hồi gay go nhất. Hơn nữa, chiến lược, chiến thuật, địch thủ cũng như chiến trường ngày nay khác xa lúc trước. Do vậy, con người cố gắng áp dụng khoa học kỹ thuật chừng nào hay chừng nấy. Tiết kiệm sinh mạng, nhân lực, thanh tốn chiến trường nhanh chĩng...là những tiêu chuẩn được các nhà lãnh đạo đặt lên hàng đầu mà khơng đặt nặng tốn kém. Trên căn bản nầy, Hoa Kỳ đã và đang chế tạo, áp dụng các loại vũ khí, phương tiện hiện đại hầu áp dụng trên các chiến trường theo nhu cầu. Trong phạm vi bài viết nầy, thử lược qua các loại phương tiện phục vụ cho chiến tranh ngày nay.

MÁY BAY DO THÁM GLOBAL HAWK:

Trong thập niên 60, với thế hệ phi cơ do thám U-2, Hoa Kỳ đã thành cơng trong việc do thám Nga Sơ và sẽ khơng đình hoản nếu khơng cĩ biến cố chiếc U-2 do Francis Gary Powers lái đã bị rơi trên đất Nga. Ngày nay, cùng với máy bay do thám khơng người lái Predator (Dã Thú), máy bay trinh sát RC-135, máy bay khơng người lái Global Hawk là một phi cơ do thám hữu hiệu của quân lực Hoa Kỳ.

Global Hawk được trung tâm Hàng Khơng Ryan, thuộc tập đồn Grumman Northrop của Mỹ, thiết kế và chế tạo. Chi phí mỗi chiếc máy bay nầy từ 10 đến 20 triệu USD tuỳ theo các trang bị phụ. Global Hawk được trung tâm hàng khơng Ryan, thuộc tập đồn Grumman Northrop của Mỹ, thiết kế và chế tạo. Chi phí mỗi chiếc máy bay nầy từ 10 đến 20 triệu USA tuỳ theo các trang bị phụ. Global Hawk hoạt động do thám trên một vùng diện tích rộng đến 137.000 km2, vẫy vùng liên tục trên khơng trung lâu đến 36 giờ đồng hồ. Với các thiết bị sẳn cĩ, nĩ cĩ thể nghe trộm đường truyền tín hiệu, bằng radar hay sĩng hồng ngoại, nĩ đánh dấu các mục tiêu, sau đĩ ghi hình các hoạt động dưới mặt đất trong khu vực hoạt động. Quân đội Mỹ sử dụng Global Hawk để mục đích phát giác, phân loại, theo dõi và giám sát đối phương từ xa mà vẫn rõ ràng, các tin tức ghi nhận từ mục tiêu đang hoạt động.

Tuy khơng cần người lái nhưng loại phi cơ nầy hoạt động rất đắc lực. Chỉ huy phĩ của Osama bin Laden là Mohammed Atef cùng với hàng chục tên tay chân thân tín của Atef đã bị phi cơ khơng người lái Predator giết chết. Gần đây, một phi cơ khơng người lái đã giết chết Qaes Salim Sinan al-Harethi, trưởng nhĩm Al Qaeda tại Yemen.

Được trang bị các kỹ thuật tối tân nhất cho dù cĩ tốn kém, chắc chắn Globail Hawk sẽ giúp ích nhiều cho ngành tình báo của quân lực Mỹ trong nỗ lực dị tìm để thu nhập được những thơng tin tình báo cần thiết mà họ cần.

EP 3 ARIES, MÁY BAY GIÁN ĐIỆP:

Đây là loại máy bay được các nhà chuyên mơn cho là "điệp viên trên khơng" dưới tên gọi tắt là ARIES (hệ thống do thám điện tử hội nhập trên khơng). Tuy là loại máy bay 4 động cơ cánh quạt bán phản lực, với vẻ xấu xí, cũ kỹ bên ngồi nhưng cĩ thể bay lâu 12 giờ, bay xa 6.000 km khơng cần tiếp tế nhiên liệu. EP 3 ARIES được trang bị những phương tiện kỹ thuật cao với các loại radar, các thiết bị tín hiệu điện tử, các máy liên lạc cực mạnh gọi là "long range electronic sureillance equipments", thường được gọi đùa là "bộ máy ghi thu băng và làm nhiễu sĩng" (recording and jamming). Thơng thường, mỗi chiếc EP 3 ARIES cĩ 24 nhân viên, 19 người trong số này là các chuyên gia của Hải Quân Hoa Kỳ, mỗi người cĩ một nhiệm vụ tình báo riêng. Phi hành đồn là những chuyên viên kỹ thuật giỏi, chuyên gia điện tử rành nhiều nghề, cĩ kiến thức cao, thường là các chuyên gia ưu tú trong quân đội nên hoạt động hữu hiệu. EP 3 được dùng trong các khoảng trống trên khơng trung giữa các vệ tinh viễn thám khơng thể phủ trùm lên nhau.

EP 3 ARIES cĩ thể phát giác những tín hiệu điện tử, truyền tin, trinh thám...rất xa của mục tiêu cần do thám; cĩ thể xoay các antenna đến hướng cần theo dõi mặc dầu phi cơ đang bay hướng khác. EP 3 ARIES cĩ thể nhận các liên lạc vơ tuyến (các máy truyền tin, radio, E-mail, cellular phone, fax, telegram...) và hữu tuyến qua các thiết bị điện tử do hảng Texas Instrument thiết kế. Các nhân viên phi cơ cĩ thể giải các bản mật mã, cĩ thể biết được nhiều thứ ngơn ngữ, ngay cả các thổ ngữ ở khu vực cầndo thám mà đối phương thường dùng các loại thổ ngữ nầy để đề phịng bị nghe lén. Chúng ta biết Mỹ đã dùng người Iroquois (da đỏ) làm tín hiệu thính viên vì ngơn ngữ nầy khơng cĩ chữ viết, người Tàu dùng tiếng Mơng Cổ và ngơn ngữ nầy khĩ đọc, khĩ nĩi trong mục đích nĩi trên. Trên EP 3 ARIES cịn cĩ một máy xử lý giọng nĩi tự động, cĩ thể xác định ngơn ngữ của người đang nĩi, phân biệt được giọng nĩi, xác định được vị trí người đang nĩi (trên máy bay, tàu hay ở mặt đất), đây là phương tiện tân tiến.

Đa số các máy bay EP 3 ARIES do hải quân Hoa Kỳ điều hành, đĩng tại các căn cứ: Whidbey Island (tiểu bang Washington, gần Seattles), căn cứ Khơng quân Rota ở Spain (Tây Ban Nha) và căn cứ Khơng quân ở Okinawa, Nhật để theo dõi 3 khu vực. Hải quân Mỹ hiện cĩ 12 chiếc EP 3 ARIES đang hoạt động, 6 chiếc tại căn cứ Whidbey, số cịn lại đĩng ở căn cứ Rota và Okinawa.

EP 3 ARIES nhận và chuyển các thơng tin cho quân sự Mỹ để giám định, phân loại để chuyển đến các nơi cĩ liên hệ hầu cĩ biện pháp thích nghi kịp thời. EP 3 ARIES được sử dụng theo dõi các hoạt động của hải quân (với khơng quân là nhiệm vụ của máy bay do thám RC-135). Tuy nhiên, chúng cũng cĩ thể nhận và chuyển các tín hiệu những tin tức trong vùng trách nhiệm.

Khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, mục tiêu theo dõi đã thay đổi. Hiện nay, các chuyến bay do thám thường tập trung ở 3 khu vực: eo biển Đài Loan (giữa Đài Loan và Đại Lục) và hai quần đảo Trường Sa, Hồng Sa, nơi cĩ trữ lượng dầu lớn, đang cĩ tranh chấp. Trong khu vực đầu, Mỹ theo dõi chặt chẻ mọi hoạt động quân sự của Trung Cộng ngõ hầu Ngũ Giác Đài cĩ các quyết định kịp thời. Ken Allard, nhà phân tích quân sự của hệ thống truyền thơng NBC nhận xét:

"Loại máy bay này rất quan trọng trong việc theo dõi hoạt động quân sự của Trung Quốc. Chúng tạo lợi thế chiến lược cho những người ra quyết định ở Mỹ".

Chiếc EP-3 ARIES II đụng độ với khơng quân Trung Cộng và phải hạ cánh xuống đảo Hải Nam khi đang thi hành cơng tác do thám Trung Cộng. Trong chuyến bay nầy, Hoa Kỳ muốn bắt tín hiệu khai hoả từ chiếc khu trục hạm (destroyer) của hải quân Trung Cộng đang diệu võ dương oai với Đài Loan. Trên chiếc khu trục hạm này cĩ trang bị hoả tiển do Nga chế tạo. Nếu lấy được mật mã khai hoả, sẽ cĩ lợi cho Mỹ vơ ngần. Biết được mật mã của hoả tiển, nếu cĩ chiến tranh, lúc Trung Cộng khai hoả hoả tiển, Mỹ cĩ thể điều khiển hoả tiễn bay đến mục tiêu nào họ muốn, cĩ thể đĩ là một cơ-sở quân sự, một chiến hạm, phi trường...nào đĩ của Trung Cộng. Đây là một trong các nhiệm vụ quan trọng của cơng tác do thám mà người Mỹ đặt nặng.

VẬN TẢI CƠ VŨ TRANG AC-130:

Các chuyên gia quân sự gọi phi cơ AC-130 gọi là "Pháo đài bay Rồng phun lửa" vì nĩ được trang bị hoả tiển nhẹ, các súng liên thanh hạng nặng, súng đại bác với số lượng đạn mang theo đáng kể. Đây là loại máy bay áp dụng chiến lược "tiêu huỷ mục tiêu".

Tuy bay thấp và chậm nhưng mục tiêu đã được các loại máy bay phĩng pháo "dọn bãi" trước, nĩ chỉ làm nhiệm vụ "kết thúc chiến trường". Ngồi ra, AC-130 cĩ thể hỗ trợ cho các đơn vị diện địa, các cuộc hành quân, tiếp tế thả dù quân trang quân dụng theo nhu cầu của mục tiêu, chiến trường mà phi cơ trực thăng khơng làm được.

PHI CƠ ĐA NĂNG F-35 JSF:

Bộ quốc phịng Mỹ đã chấp thuận dự án thay thế các loại phi cơ đã cũ bằng loại phi cơ F 35 JSF (Joint Strike Fighter) cho khơng quân, hải quân và thuỷ quân lục chiến. Đồng thời, phi cơ nầy cũng được Khơng quân và hải quân Hồng Gia Anh quốc thay thế phi cơ của họ. Đây là loại phản lực oanh tạc chiến đấu cơ với khả năng cao trong nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu cũng như khơng chiến, nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại phi cơ cũ.

Các chuyên gia quân sự cho rằng F-35 là phi cơ "độc nhất vơ nhị" vì là loại phản lực cơ nhưng cĩ thể lên xuống thẳng đứng như phi cơ trực thăng. Phi cơ do hảng Locheed Martin Aeronautics Co. tại cơ xưởng tại Fort Wort, Texas chế tạo dựa trên kỹ thuật "lift fan design". Kỹ thuật nầy cịn cĩ thể tăng cường sức đẩy cho hệ thống phản lực khi cần trong trường hợp đặc biệt.

F-35 là loại phản lực cơ siêu thanh chỉ một người lái, trọng lượng 24,000 lbs, cĩ thể mang theo 17.000lbs vũ khí, 16.000lbs xăng. Đây là chiếc máy bay trang bị nhiều kỹ thuật của nhiều hãng: Động cơ máy bay do hãng Pratt & Whitney chế tạo, hệ thống Radar điện tử tối tân AESA do hãng Vision System International chế tạo, hệ thống đo lường điện tử do Snader Litton Amecon chế tạo, hệ thống xác định mục tiêu do hãng Lockheed Martin chế tạo. Với hệ thống súng liên thanh được điều khiển bằng tia laser, khả năng tác chiến rất và chính xác.

Theo dự trù, 1.700 chiếc sẽ trang bị cho khơng quân Mỹ với giá 28 triệu Mỹ kim một chiếc. Hải quân Mỹ với 408 chiếc mỗi chiếc 35 triệu Mỹ kim vì khác hệ thống lên xuống, cần cĩ hệ thống bánh đáp với dây mĩc, lớn hơn để được nhiều vũ khí hơn. Thuỷ quân lục chiến Mỹ cần 480 chiếc với giá 38 triệu một chiếc vì hệ thống điều khiển đặc biệt hơn: cần cĩ máy phản lực dưới thân để phi cơ cĩ thể lên xuống thẳng đứng hay cĩ thể đứng một chỗ hoặc xoay trịn trên khơng như một chiếc trực thăng. Hoa Kỳ và Anh Quốc cĩ cĩ loại phi cơ AV-8 Harrier cĩ tính năng lên thẳng tương tự nhưng khác ở chỗ AV-8 Harrier khơng cĩ hệ thống phản lực. AV-8 Harrier do Anh Quốc chế tạo cho hải quân Hồng Gia Anh sau đĩ được hãng Boeing của Mỹ tân trang.

Ngồi Hoa Kỳ và Anh Quốc ra, các nước Canada, Ý, Hoa Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch cũng cĩ dự định đặt mua loại F-35 tân tiến nầy để trang bị cho quân lực của họ.

OANH TẠC CƠ B-1B:

Là loại oanh tạc cơ siêu thanh xa cánh thẳng, cĩ tên là B-1B "Lancer", trực thuộc khơng quân Hoa Kỳ. B-1B là máy bay duy nhất cĩ thể bay vịng quanh thế giới nếu được tiếp nhiên liệu trên khơng (do tiếp tế cơ KC-10). Mỗi chiếc B-1B trị giá khoảng 280 triệu dollars.

B-1B Lancer là kiểu máy bay đã gây nên nhiều tranh luận tại Mỹ. Dưới thời Richard Nixon, B-1B được chấp nhận chế tạo từ năm 1970 cho nhiệm vụ mang bom nguyên tử vì nĩ cĩ thể bay xa. Cơ xưởng sản xuất B-1 đặt tại Rockwell International ở Palmdale, Nam California.

Trước những tranh cãi quanh về tính năng, kỹ thuật cũng như phí tổn quá cao, năm 1977, Jimmy Carter cho ngừng chương trình sản xuất B-1. Tổng thống Ronald Reagan cho tái tục chương trình nầy sau bốn năm gián đoạn trước những căng thẳng của chiến tranh lạnh. B-1B "Lancer" là tên của kiểu máy bay đã cải tiến kỹ thuật. Chiếc máy bay thứ 100 được hồn thành vào năm 1988.

Chiến tranh lạnh kết thúc mà máy bay B-1 chưa được sử dụng, việc chở bom nguyên tử khơng cịn cần thiết và đến lúc dùng hoả tiển cĩ hiệu quả hơn. Tổng thống George W. Bush cho lệnh sửa chữa B-1B để mang bom thường, dự án với kinh phí là 3 tỷ dollars. Gần đây bộ quốc phịng Mỹ đưa kế hoạch giảm bớt 1/3 số máy bay này, chỉ sử dụng khoảng 60 chiếc. B-1 đĩng tại các căn cứ lớn ở quốc nội (Ellsworth, South Dakota) hay quốc ngoại (Diego Garcia, một quần đảo thuộc Anh, nơi đặt căn cứ cho phi cơ ném bom hạng nặng B-1B và B-52H).

Mỗi chiếc B-1B cĩ thể mang 24 bom loại JDAM (bom điều khiển bằng hướng dẫn qua vệ tinh) trong khi máy nhỏ chỉ mang được 1 hay 2 trái hoặc chiếc B-2 chỉ mang được 16 trái. Phi cơ B-1B được dùng trong chiến dịch oanh tạc Afghannistan.

JDAM: dam là tên một loại bom mới của quân đội Mỹ. Trong cuộc chiến vùng Vịnh vào năm 1991, các phi cơ oanh kích của Hoa Kỳ phải quay trở lại căn cứ mà khơng thể thả bom xuống trận địa do mây và khĩi từ các giếng dầu của hệ thống hướng dẫn bằng tia laser khơng thể nhìn thấy mục tiêu. Từ trở ngại nầy, ý tưởng chế tạo ra loại bom thơng minh của tướng McPeak được các chuyên gia quân sự Mỹ nghiên cứu và vào năm 1998, Boeing sản xuất ra bom Jdam. Jdam nặng 2,000lbs, được điều khiển qua vệ tinh khắc phục được những nhược điểm của các loại bom cũ.

Phi cơng Mỹ thích sử dụng loại bom Jdam hơn dùng bom định vị bằng tia laser. Ném bom định vị bằng laser, phi cơng phải hạ thấp độ cao để xác định mục tiêu (tối thiểu là 5.000m cách mặt đất). Sau đĩ, chiếu luồng laser để hướng dẫn trái bom đến mục tiêu. Bay thấp rất nguy hiểm hơn, hơn nữa tia laser cĩ thể bị lệch đi do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. Do vậy, trái bom cĩ thể khơng trúng đích như mong muốn.

Với bom Jdam, phi cơng chỉ cần nhấn nút và ung dung bay trở về, chắc chắn rằng nhiệm vụ đã hồn thành bởi vì trái bom sẽ phối hợp với hệ thống vệ tinh định vị hồn cầu (GPS) tìm diệt mục tiêu. Bộ não của bom là một thiết bị nhận tín hiệu GPS và thi hành theo lệnh. Ngồi ra, cịn cĩ thiết bị điều chỉnh hướng bay với các cánh trên đuơi quả bom, theo các dữ liệu về toạ độ mục tiêu được vệ tinh cung cấp. Bom định vị bằng laser dễ đi lạc nếu cĩ khĩi, sương mù, mưa giĩ hay bão, nhưng với tín hiệu GPS, bom Jdam hoạt động rất hữu hiệu ngay cả trong thời tiết xấu nên cịn được gọi là "bom thơng minh". Ngồi ra, bom Jdam được gắn đuơi định hướng nên biết đường bay đến mục đích do máy bay hay hệ thống định vị tồn cầu cung cấp nên chính xác, các chuyên gia muốn biết thiết kế độ chính xác chỉ trong vịng 3 thước của các mục tiêu nên được gọi là "bom chính xác" ngoại trừ trường hợp mục tiêu định sẳn lúc ban đầu bị sai. Một tướng Khơng Quân Mỹ cho biết: "Trong cuộc chiến ở A-Phú-Hản" loại bom Jdam đã được cải tiến nên cĩ thể giội bom xuống khoảng 3 thước của mục tiêu. Thậm chí nếu kẻ thù cố làm cho hệ thống định vị tri1 tồn cầu của vệ tinh giảm tác dụng đi, Jdam vẫn hoạt động chính xác".

Những chiếc đuơi của bom được hãng chế tạo máy bay Boeing sản xuất trong một cơ xưởng ở thành phố St. Louis, Missouri. Jdam khơng địi hỏi phi cơng phải xác định mục tiêu, máy bay được phép thả bom từ độ cao an tồn tuyệt đối (11.000m) và thời gian phĩng ngắn hơn. Trung tá James Dunn thuộc Khơng Quân Mỹ nhận định:

-Nếu như phi cơng phĩng một hoả tiển tự điều khiển đường bay (cruise missile) anh ta cần phải mất đến 1 tiếng đồng hồ. Trong khi phĩng một quả bom Jdam chỉ mất 10 phút".

Trong chiến tranh với Iraq năm 1991, Hoa Kỳ sử dụng khoảng 7% loại bom thơng minh, trong cuộc xung đột tại Kosovo, con số gia tăng đến 30%, trong cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ đã sử dụng 60% loại bom này. Trong các cuộc chiến tương lai, cĩ lẽ loại bom nầy sẽ rất hữu dụng.

Nhược điểm của Jdam là do dựa vào tín hiệu từ vệ tinh, nếu đối phương dựng đài phát tín hiệu làm nhiễu các tín hiệu GPS, bom Jdam cĩ thể bị đánh lừa. Muốn thực hiện điều này, địi hỏi đối phương phải cĩ nhiều tiền, phải cĩ một đội ngu nghiên cứu giỏi, cĩ trình độ kỹ thuật, cơng nghệ cao cộng với các điều kiện nghiên cứu khác mà khơng phải nước nào cũng cĩ thể làm được những điều nầy.

Trong tương lai nếu xảy ra chiến tranh, chắc chắn Mỹ sẽ khơng sử dụng các loại oanh tạc cơ F-117 chỉ thả mỗi lần vài quả bom điều khiển bởi tia laser mà họ sẽ dùng oanh tạc cơ B-2 cĩ thể mang 16 quả Jdam hay oanh tạc cơ B-1B mang được 24 quả bom Jdam trong một phi vụ. Tướng Tommy Frank, Tham Mưu Trưởng quân đội Mỹ cho biết: "Trong cuộc chiến vùng Vịnh , chúng tơi sử dụng 10 oanh tạc cơ để oanh tạc một mục tiêu. Nhưng hiện nay, chúng tơi cĩ thể sử dụng một oanh tạc cơ để khơng tập hai mục tiêu".

Với lượng dự trữ 20 ngàn quả Jdam, các chiến lược gia Ngũ Giác Đài cho rằng khơng đủ cung ứng cho chiến trường nên họ hối thúc hãng Boeing gia tăng sản xuất để cung ứng cho quân đội Mỹ.

BOM ÁP NHIỆT BLU-118/B.

Với các mục tiêu là hanh động, núi non hiểm trở, hầm hố (như trong cuộc chiến tại Afghanistan) để tránh tổn thất về nhân mạng, Hoa Kỳ dùng loại bom áp nhiệt BLU-118B. Đây là một phát minh của một di dân Mỹ gốc Việt: Bà Dương Nguyệt Aùnh.

Sau khi được thả xuống mục tiêu, bom chui lọt qua cửa hầm và nổ tung. Sau khi nổ, nĩ phĩng ra hàng ngàn mảnh thép, phá tung những bờ thành, sàn hầm, biến tất cả thành tro bụi chỉ trong nháy mắt, hang động bị huỷ diệt một cách kinh khiếp, tạo ra nhiệt lượng cao và sức ép luồn vào các địa đạo để tiêu diệt sự sĩ6ng bên trong hang. Điều đặc biệt là sau khi nổ một thời gian lâu mà nhiệt độ cao và sức ép vẫn duy trì.

Thơng thường, sức cơng phá của các loại bom khác bị núi non, hầm hố, hang động cản trở, nhưng khi bom BLU-118/B nổ, sức ép và nhiệt đã len lỏi qua các khe của hang, xuyên ra thật xa mà vẫn đủ sức để tiêu diệt sự sống, xa đến cả 1,100 feet.

BOM E:

Đây là một loại bom ứng dụng nguyên tắc của tia X, khơng gây tác hại cho nhân mạng mà chỉ phá huỹ hay làm tê liệt các hệ thống điện, các đường khí đốt (gas), các loại vũ khí sinh hố trong các kho chứa, tấn cơng các cơ sở sản xuất vũ khí, phá sĩng hệ thống vơ tuyến...Sau khi nổ, bom tạo nên sĩng cao tần (giống như sĩng xung động của bom A, bom H), sĩng nầy cĩ thể xuyên đến các kho hầm theo các lỗ thơng hơi hay các đường dây cáp để vơ hiệu hố các loại vũ khí tồng trữ hay đang sản xuất. Khi đối phương mang các loại vũ khí bị bom gây nên sẽ khơng cịn hiệu quả như lúc ban đầu. Bom được trang bị trên phi cơ oanh tạc, máy bay khơng người lái hay được phĩng đi bằng hoả tiễn.

Đây là sản phẩm của Anh Quốc, sản xuất trong một cơ sở Tây Nam nước Anh được Hoa Kỳ đặt mua để trang bị cho quân đội.

BOM MININUKE B 61-11:

Đây là một loại bom nhỏ (đường kính 34cm, dài 3,59m, nặng 315kg), B61-11 dùng để cơng phá các hầm hố, các cơng sự phịng thủ, các căn cứ, các kho tàng, nhà máy nằm sâu trong lịng đất...cĩ sức cơng phá tương đương 400 tấn thuốc nổ TNT (trinitrotoluent). Với biệt danh Mininuke (bom hạt nhân nhỏ), sức cơng phá nhỏ (tương đương 400 tấn TNT nếu so với 13,000 tấn TNT của quả bom thả xuống Hiroshima) nhưng nhờ cĩ thể xuyên sâu đến 6m dưới lịng đất mới nổ và khi nổ, sức cơng phá cĩ xu hướng theo chiều sâu nên vơ cùng lợi hại.

Ý nghĩa sản xuất một loại bom với những tính năng nĩi trên xảy ra trong biến cố Libya. Mỹ nghi Libya cĩ các cơ sở sản xuất vũ khí nằm sâu dưới lịng đất ở Tarhunah cần phải huỹ diệt. Là một loại bom bí mật, mới sản xuất, B61-11 chứa chất plutonium, dự án sản xuất bắt đầu từ năm 1989.

Trong cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, để chuẩn bị cho chiến tranh, việc phá huỷ các cơng trình ngầm dưới đất của Iraq là một nhu cầu của Mỹ. Các loại bom của quân đội Mỹ lúc đĩ chưa đủ sức phá những hầm hố, kho tàng, sở chỉ huy nằm dưới đất cảu Iraq. Vì vậy, họ cĩ chương trình phát triển loại bom cĩ thể "nổ trong lịng đất", và vào tháng 2/1991, bom GBU 28 ra đời. GBU 28 chỉ là bom cải tiến từ các loại bom cũ, là một thứ vũ khí sử dụng chất nổ truyền thống tritonal, dài 5,72 m, đường kính 37cm, nặng 2 tấn. Hai bom GBU 28 đã được thả từ máy bay F-111 xuống Iraq.

B61-11 được phịng thí nghiệm khoa học Los Alamos nghiên cứu. Các thơng tin v6è kỹ thuật cho biết sức cơng phá:bom GBU 28 với 306 kg chất nổ tritonal, tương đương khoảng 385kg TNT, sức nổ của B61-11 tương đương khoảng 300 tấn TNT.

Theo nhu cầu của chiến trường, viện chính sách cơng chúng Quốc Gia Mỹ tuyên bố về sự cần thiết phải sử dụng vũ khí hạt nhân nhẹ: "Trong tương lai, nước Mỹ cĩ thể cần sử dụng loại vũ khí hạt nhân đơn giản, cĩ sức cơng phá yếu, được điều khiển , để chống lại các mục tiêu cụ thể và kiên cố như các nhà máy sản xuất vũ khí hố học dưới lịng đất".

SÚNG LASER CHỐNG HOẢ TIỄN GẮN TRÊN PHI CƠ:

Trong kế hoạch "Chiến tranh các vì sao" với nhiệm vụ phịng thủ lãnh thổ khi bị tấn cơng, Hoa Kỳ áp dụng nhiều thành tựu khoa học. Mới đây, Mỹ đã thành cơng việc dùng hoả tiển bắn hạ một hoả tiển khác đang bay. Ngồi ra, ngành cơng nghiệp và quốc phịng đã thí nghiệm một kiểu máy bay phản lực Jumbo cĩ trang bị súng laser để bắn hạ hoả tiển. Với thành tựu nầy sẽ là yếu tố then chốt gíup hệ thống phịng thủ dễ dàng bắn hạ hoả tiển đối phương nhắm vào đất Hoa Kỳ.

Với kế hoạch nầy, các máy bay tuần tiểu tại các vùng quan trọng với cao độ trên 12 ngàn thước (quân đội Mỹ dùng Boeing 747-400). Các hệ thống quan sát sử dụng tia laser sẽ theo dõi tất cả mọi hoạt động trong phạm vi giới hạn, sẽ thơng báo mọi diễn tiến của hoạt động khả nghi (hoả tiển địch) về máy bay. Khi đã phát giác, nĩ sẽ theo sát hoả tiễn trong lúc các hệ thống trên máy bay sẽ tính tốn phương hướng, vận tốc, và các dữ liệu khác của hoả tiễn để ước tính các chi tiết cần thiết đối phĩ. Sau một thời gian rất ngắn ước tính, một chùm tia laser sẽ được phĩng từ phi cơ sang hoả tiễn đang bay trong khoảng từ 3 đến 5 giây đủ sức xuyên thủng lớp vỏ hoả tiển để kích nổ để phá huỷ nĩ trên khơng trung trước khi đến mục tiêu đối phương đã nhắm đến.

LASER DỊ MÌN:

Ngồi áp dụng laser cho chiến lược phịng thủ nĩi trên, các nhà khoa học Mỹ tại căn cứ quân sự Waynesville, Missouri vừa sáng chế ra hệ thống dị mìn mới. Hệ thống nầy sử dụng kỹ thuật laser để phát giác và phá huỷ mìn bẫy, bom đạn...nằm rãi rác trên chiến trường. Những thứ nầy là mối đe doạ cho mọi người vì cĩ thể nổ bất cứ lúc nào.

Hệ thống dị mìn Zeus của Mỹ gồm mộ máy phĩng laser cực mạnh đặt trên một chiếc xe bọc thép (để giữ an tồn cho quân nhân sử dụng). Người lính ngồi trong xe dùng một cần điều khiển để phĩng chùm laser ra vùng cần dị mìm bẫy. Một chùm laser cĩ cơng suất từ 500 đến 2.000 watt cĩ thể xuyên thủng vỏ thép của mìn bẫy, bom đạn làm cho chúng bùng nổ.

Theo các chuyên gia Mỹ, Zeus cĩ thể phát giác tất cả bom đạn, mìn bẫy (vỏ, nhựa, kim loại) ở khoảng cách từ 25 đến 250 mét. Yếu điểm của Zeus là chùm laser khơng thể xuyên sâu xuống đất nên Zeus thích hợp cho việc dị mìn ở chiến trường chứ chưa thể dị mìn chơn sâu dưới đất được.

VŨ KHÍ THỜI TIẾT HAARP:

Chương trình mang tên HAARP cĩ khả năng chế ngự khí hậu: cĩ thể tạo ra những thay đổi thời tiết tại địa phương được chọn làm mục tiêu, cĩ thể gây ra lũ lụt, bạ và động đất.

Chương trình nầy ra đời tại Gokoma, tiểu bang Alaska, với sự bảo trợ của Khơng quân và Hải quân Mỹ, HAARP là một trong những loại vũ khí tinh vi mới của chiến lược phịng thủ của Mỹ. HAARP gồm một hệ thống antena cực mạnh cĩ thể "tạo ra những thay đổi cĩ thể kiểm sốt được trong tần điện ly". Hệ thống nầy tạo một sự thay đổi thời tiết theo ý muốn. Là một tiến bộ của nhân loại cĩ thể làm thay đổi thiên nhiên. Theo tờ Times của Anh cho biết: "các phương pháp được sử dụng bao gồm kích hoạt những cơn giơng bão, khiến nước các dịng sơng bốc hơi để từ đĩ xuất hiện mưa, gây ngập lụt ở các mục tiêu trên trái d0ất mà Mỹ muốn".

Được biết sĩng điện từ tần số thấp, khi dội về trái đất ở cường độ cao cũng cĩ thể tác động đến não bộ con người, đến điện từ trường của trái đất, làm xáo trộn các hệ thống sinh thái, ảnh hưởng đến thời tiết, khí hậu, nơng nghiệp. HAARP là một thứ "vũ khí" hết sức nguy hiểm, cĩ thể thay đổi bộ mặt trái đất.

Chương trình nầy bị các tổ chức bảo vệ mơi trường ở Mỹ phản đối. Tiến sĩ Nicholas Begich, một trong những người đi đầu trong chiến dịch chống HAARP gọi nĩ như một cơng nghệ phát sĩng radio siêu mạnh, cĩ thể tập trung các tia sĩng và làm thủng tầng điện ly" (ozone) (tầng nằm trên cao trong bầu khí quyển, cĩ nhiệm vụ bảo vệ trái đất)". Tiến sĩ Rosalie Bertell, một khoa học gia cho rằng "các chuyên gia quân đội Mỹ đang làm việc trong những hệ thống thời tiết được xem là vũ khí tiềm năng".

PACKBOT, ROBOT CHIẾN TRƯỜNG:

Trên mặt trận Afghanistan, quân đội Mỹ đã đưa robot tên Packbot vào chiến trường, đảm nhiệm những sứ mệnh nguy hiểm thay con người. Packbot được giao cho đại uý Robert Merritt, người chỉ huy đơn vị lục địa quân tại căn cứ các bức ảnh, tin tức. Ngồi ra, robot cịn cĩ nhiệm vụ kiểm sốt các bãi chiến trường sau trận chiến, thám sát các tồ nhà, hang động. Mỗi chiếc xe robot Packbot trị giá 45.000 mỹ kim.

Các nhà khoa học Mỹ dự trù sẽ cải cách robot Packbot nầy bằng cách lắp thêm camera, súng ống và lựu đạn cho nĩ để cĩ thể sự dụng vào việc khác: nhiệm vụ của một binh sĩ hoặc như một chuyên viên để thám sát địa thế, theo dõi, báo cáo chất độc tại chiến trường.

ROBOT TÌM ĐỊCH QUÂN:

Cũng trên mặt trận Afghanistan, lần đầu tiên trong quân sự, quân lực Mỹ đưa robot vào chiến trường. Ngày 29/ 7/ 2002, sư đồn 82 Khơng Kỵ Mỹ căn cứ tại Fort Bragg, đã sử dụng robot Hermes để len lỏi vào các hang động ở Afghanistan để lục lọi tìm người, khí tài của quân khủng bố Al Qaeda. Robot Hermes dài 3 feet, nặng 43lbs, di chuyển nhờ hai bánh kéo bằng dây xích như bánh xe tăng màu xanh lục.

Trên thân robot Hermes được đặt hai máy camera. Những hình ảnh quay được sẽ được truyền bằng sĩng điện từ cho người điều khiển ở ngồi hang. Bánh xích của robot cĩ thể vượt qua mọi chướng ngại, cĩ thể len lỏi qua những hĩc kẹt rất nhỏ của quân nhân hay quân khuyển khơng qua được, tránh được hơi độc, chất độc cĩ thể gây thương vong cho binh sĩ. Robot Hemes cịn dùng để tiền sát hay rà mìn bẫy, giúp cho binh sĩ tránh khỏi những cuộc phục kích hay mìn bẫy sát thương. Với mìn bẫy gài trên cao, robot cũng phát giác được nhờ máy camera.

Mỗi robot Hermes cĩ thể mang theo 12 camera, nhiều súng tự động hay phĩng lựu, được điều khiển từ xa. Robot Hermes cĩ giá 40.000 mỹ kim mỗi chiếc.

SÚNG LASER, BOM VI-BA:

Đây là loại vũ khí chưa được xử dụng, là súng hay bom khi nổ khơng cĩ miểng, đả thương con người bằng tia laser và các sĩng vi-ba, khơng làm chết người mà chỉ gây thương tật suốt đời. Tia laser sẽ làm mù mắt, sĩng vi-ba sẽ làm phỏng da trầm trọng, nước trong cơ thể con người cĩ thể bị nung sơi, địch quân sẽ cảm thấy nĩng nảy, khĩ chịu tột cùng cho dù núp, trốn bất cứ nơi đâu. Đây là loại vũ khí nguy hiểm vì nĩ khơng làm chết ngay địch quân mà gây thương tật vĩnh viễn, tạo một gánh nặng tài chánh (phải nuơi nấng thương binh suốt đời) và tâm lý (sợ sệt) cho quốc gia địch. Trước đây loại mìn cĩc cũng khơng làm chết người (khi đạp phải, nĩ nhảy lên ngang gối mới nổ làm cho địch quân gãy chân, phải cưa chân, thành phế nhân) nhưng để lại cho xã hội gánh nặng từ các thương binh nầy.

Bom súng laser này bị các tổ chức nhân quyền khắp nơi phản đối kịch liệt nên các chuyên gia quân sự Anh-Mỹ e ngại chưa mang ra sử dụng. Trước đĩ, các nhà bảo vệ nhân quyền đã nhờ đến pháp luật quốc tế để cĩ biện pháp chế tài loại vũ khí nầy. Tuy vậy, nhờ kẻ hở của luật pháp: "trong một quyết định quốc tế vào ngày 30-10-2000 cho phép ứng dụng tia sáng laser để chế tạo loại vũ khí "khơng giết người" (non-lethal) nên các chuyên gia Anh-Mỹ lợi dụng kẻ hở của luật trên để chế tạo loại vũ khí đặc biệt nầy.

QUÂN PHỤC AN TỒN, QUÂN PHỤC CHỐNG ĐỘC:

Trong cuộc chiến Afghanistan, binh sĩ mỹ được trang bị loại quân phục đặc biệt để thích nghi với khí hậu khắc nghiệt tại đĩ, khác hẳn với quân phục cũ. Ngồi màu sắc phù hợp với màu đất, bộ quân phục nầy giúp quân nhân chịu được sức nĩng nung người ban ngày nhưng đêm vừa xuống cái lạnh buốt da kéo đến. Các phát minh mới cũng được ứng dụng, binh sĩ được trang bị máy liên lạc cá nhân với ống liên hợp gắn vào mũ sắt, ống nhắm hồng ngoại tuyến, mặt nạ phịng hơi độc... Trong cuộc chiến chống khủng bố hiện tại và tương lai, Hoa Kỳ e ngại binh sĩ của mình phải đối đầu với trận chiến mà địch quân sẽ dùng vũ khí hố học, sinh học. Để bảo vệ binh sĩ trong chiến trận sinh hố-học, các chuyên gia Mỹ đã nghiên cứu và chế tạo quân phục chống độc. Ứng dụng cơng nghệ mang tên Nano, quân phục được dệt từ các sợi Natrik của Quân lực Mỹ tại Massachussetts cho biết: "Với việc ứng dụng cơng nghệ Nano, người ta đã thay đổi tính chất của các sợi nầy, khiến chúng tăng độ chịu nhiệt, độc cứng và độ đàn hồi".

Vải dệt quân phục nầy là loại sợi đặc biệt, cơng nghệ Nano thay đổi tính chất của sợi để chúng cĩ thể chịu đựng được nhiệt độ (nĩng, lạnh), độ cứng, độ đàn hồi vì thế quân phục cĩ thể chống lạnh, ngăn nĩng.

PHI CƠ SIÊU THANH HYPER-X CỦA HOA KỲ:

Với các kỹ thuật tân lỳ, các chuyên viên hàng khơng của Nasa nghiên cứu và sắp sản xuất các loại siêu thanh mang tên Hyper-X, bay nhanh gấp nhiều lần vận tốc âm thanh. Thế hệ siêu thanh cơ tương lai mang tên X-43 gồm cĩ:

X-43A: Động cơ nổ chạy bằng hydro lỏng, lấy ơxy từ khơng khí. Tốc độ của X-43A lên đến Mach 7, cĩ thể lên đến Mach 10

X-43C: Động cơ nổ theo nguyên lý của động cơ máy bay siêu thanh thường của Khơng lực Hoa Kỳ. Tốc độ tối đa của X-43C sẽ từ Mach 5 đến Mach &.

Đây là những phát minh tân kỳ của lồi người. Máy bay cĩ thể với cao độ 33 km, tốc độ là trên 6.000km/giờ trở lên (hơn Mach gấp 5 lần vận tốc âm thanh), động cơ nổ là sự kết hợp nguyên lý của động cơ máy bay phản lực và hoả tiễn, lấy oxy trực tiếp từ khơng khí nên hiệu suất gấp nhiều lần động cơ phản lực thường.

 

 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002