|
|
|
Đại Chúng số 116 - ngày 15 tháng 3 năm 2003 |
|
Lời giới thiệu : Là những người yêu thích văn nghệ, nhất là vă n chương Việt Nam hải ngoại, chúng tôi hân hạnh được quen biết thi sĩ Song Thái, một bậc trưởng thượng trong giới thi ca có kiến thức vô cùng vững chắc về Thơ, và là tác giả một kho tàng vô giá của cả ngàn bài thơ đủ thể loại. Khi nghe được những ưu tư của chúng tôi đối với nền thi ca hải ngoại đang được mùa về số lượng nhưng phẩm chất chung của cánh đồng lại bị đe doạ, vì một số thợ cấy lúa làm việc hấp tấp cẩu thả tắc trách, thi sĩ Song Thái đã cụ thể hoá những lời an ủi chân tình của mình với chúng tôi thế hệ thứ hai và cả những thế hệ sau, bằng cách cho phép chúng tôi, một lần nữa, gửi đến bạn đọc cũng như tất cả các tầng lớp thi sĩ Việt Nam trong và ngoài nước một bài nghiên cứu về Thơ mà thi sĩ Song Thái đặt cho một nhan đề khiêm tốn là "VÀI NÉT VỀ THƠ".Bình Huyên VÀI NÉT VỀ THƠ Song Thái C húng ta hãy đọc mấy câu thơ của vua Lý Thánh Tôn tả cái khung cửi dệt vải :Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương Nên phải lên ngôi giữ mối giường Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt Gót vàng dậm đạp máy âm dương Rồi chúng ta đọc lại một câu đối cổ nói về ngà y Tết Nguyên Đán :Thịt mỡ dưa hành câu đ ối đỏNêu cao pháo nổ bánh trưng xanh Và chúng ta đọc mấy câu của Phan Kế Bính (1875-1921), trích trong "Việt Nam Thi Ca Hợp Tuyển" của Dương Quảng Hàm : "Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lýlà cái lẽ căn nguyên của việc ấy. Vă n chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ, câu hát, viết ra bài văn bài luận, thì gọi là văn chương. Song thử xét xem cái căn nguyên của văn chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra, thì gọi là nguyên lý văn chương."Tất cả những gì chúng ta vừa đọc gọi là văn chương Việt Nam. Như vậy, trong văn chương Việt Nam có ba loại như trê n mà gọi là ba thể chính :1.- Thể VĂN VẦN tức là loại văn có vần, thường gọi là Thơ.2.- Thể BIỀN VĂN tức là loại văn, tuy không có vần nhưng đối nhau, vì chữ BIỀN có nghĩa là hai con ngựa đứng song song.3.- Thể TẢN VĂN là loại văn không có vần cũng không có đối, tự do mà viết ra, thường gọi là văn xuôi.Trong văn chương Việt Nam còn có nhiều thể khác như Phú, Văn tế, Ca trù … nhưng trong bài này chỉ chú trọng đến văn vần, ai cũng ưa thích gọi là THƠ.Ông tổ của Thô bằng tiếng Việt Nam là Hàn Thuyên, tên tục là Nguyễn Thuyên (1225-1257), người phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. ………………………………… (I) ÂM THANH Nói về Thơ hay làm Thơ phải cần chú trọng đến hai chữ Aâm Thanh, vẫn có nghĩa thông thường là ngôn ngữ, tiếng nói của một dân tộc hay một quốc gia. Nhưng đ ứng về phương diện đọc Thơ hay làm Thơ thì âm thanh có một định nghĩa rộng rãi và khó hiểu hơn. Qủa thực vậy, khó mà có một định nghĩa rõ ràng và xác đáng về chữ Aâm Thanh.Khi vừa đọc đến chữ Aâm Thanh thì chỉ tưởng đó là một danh từ kép để chỉ tiếng nói, nhưng thực ra âm thanh có hai phần : Aâm và Thanh.Tiếng Việt Nam chúng ta là thứ tiếng có một âm (độc âm). Khi cái Aâm phát ra ngoài miệng thì Aâm đó biến thành nhiều Thanh, khi cao khi thấp, khi ngắn khi dài, khi mau khi chậm. Một Aâm của ta khi phát ra ngoài miệng có đến 6 thanh. Thí dụ như : - Aâm "ai" phát ra 6 thanh là : ai, ái, ài, ải, ãi, ại ; - Aâm "oi" phát ra 6 thanh : oi, ói, òi, ỏi, õi, ọi. Vì là chữ Quốc Ngữ dùng để viết tiếng Việt Nam có 5 dấu là Sắc, Huyền , Hỏi, Ngã , Nặng, cả chữ không có dấu nữa nên hoá ra 6 Thanh. Sáu Thanh này còn trở nên 8 Thanh theo phần giải thích sau đây : Từ xưa đến nay, trong ngôn ngữ Việt Nam không có sẵn tê n riêng để gọi các Thanh cho nên ông tổ thơ Việt Nam là Hàn Thuyên (vừa nói ở trên) đã phải mượn các danh từ Trung Hoa (còn gọi là Hán Việt), vả lại Thơ Việt Nam đã xuất phát từ Trung Hoa.Trong văn chương Trung Hoa có 4 Thanh gọi là :Bình thanh Thượng thanh Khứ thanh Nhập thanh Đem tê n những thanh của Trung Hoa này mà đối chiếu với 6 thanh của Việt Nam thì :Bình thanh là những tiếng Việt Nam nào không có dấu, hoặc có dấu Huyền. Thượng thanh là những tiếng Việt Nam nào có dấu Ngã hoặc dấu Hỏi. Thí dụ : Bổng và Bỗng. Khứ thanh là những tiếng Việt Nam có dấu Sắc và dấu Nặng. Thí dụ : Niếm và Niệm. Nhập thanh là những tiếng Việt Nam tuy cũng có dấu Sắc và dấu Nặng, nhưng lại tận cùng bằng một phụ âm C, CH, P, T. Thí dụ : Bốc và Bộc hay Ních và Nịch. Nếu một lần nữa, chúng ta lại đem 4 Thanh của Trung Hoa đối chiếu với 6 Thanh Việt Nam, mà cứ Thanh nào của Việt Nam cao thì thêm chữ Phù (Bổng, Nổi, Nhẹ), mà cứ Thanh nào của Việt Nam thấp thì thêm chữ Trầm (chìm), thì 4 Thanh của Trung Quốc sẽ thành 8 Thanh của Việt Nam như sau :Phù Bình Thanh gồm các tiếng không có dấu. Trầm Bình Thanh gồm các tiếng có dấu Huyền. Phù Thượng Thanh gồm các tiếng có dấu Ngaõ. Trầm Thượng Thanh gồm các tiếng có dấu Hỏi. Phù Khứ Thanh gồm các tiếng có dấu Sắc. Trầm Khứ Thanh gồm các tiếng có dấu Nặng. Phù Nhập Thanh gồm các tiếng có dấu Sắc nhưng lại tận cùng bằng C, CH, P, T. Trầm Nhập Thanh gồm các tiếng có dấu Nặng nhưng lại tận cùng bằng C, CH, P, T. Trên đ Làm Thơ Việt Nam lại còn phải theo luật Bằng và Trắc. ……………………………. (II) BẰNG và TRẮC Tám Thanh ở trên chia ra làm hai loại Bằng và Trắc. - BẰNG (Hán Việt là BÌNH) là những thanh khi phát ra bằng phẳng, đều đều, êm ái, dịu dàng.BẰNG có hai thanh là Phù bình thanh và Trầm bình thanh. - TRẮC (Hán Việt là nghiêng lệch) là những thanh phát ra hoặc từ thấp lên cao hoặc từ cao xuống thấp. TRẮC có 6 thanh là Phù thượng thanh, Trầm thượng thanh, Phù khứ thanh, Trầm khứ thanh, Phù nhập thanh, Trầm nhập thanh. Sự phân chia ra BẰNG và TRẮC là một điều rất quan trọng trong phép làm VĂN VẦN tức là làm THƠ. Theo cách viết chữ Quốc Ngữ, thì những chữ nào không đánh dấ u, hoặc đánh dấu Huyền là loại BẰNG. Còn những chữ có đánh một trong các dấu SẮC, HUYỀN, HỎI, NGÃ, NẶNG, là loại thuộc về TRẮC.(III)VẦN Làm THƠ tức là làm VĂN VẦN thì phải chú trọng đến VẦN, tức là những ÂM và THANH hoà hợp đặt vào trong các câu thơ cho hưởng ứng với nhau. Trong đầu bà i này, chúng ta đã đọc bốn câu thơ của vua Lý Thánh Tôn trong đó có những chữ thương, giường, dương. Những chữ ấy là VẦN của bài thơ.VẦN cũng có hai loại : VẦN CHÍNH và VẦN THÔNG. A- VẦN CHÍNH là những vần mà cả AâM với THAN H đều hợp với nhau.1 - THANH : Như vừa nói trong đoạn trên thì- THANH BẰNG có hai loại : Phù bình thanh và Trầm bình thanh. - THANH TRẮC có sáu loại : Phù thượng thanh, Trầm thượng thanh, Phù khứ thanh, Trầm khứ thanh, Phù nhập thanh, Trầm nhập thanh. Như vậy ba vần thương, giường, dương là VẦN CHÍNH vì là cùng một âm ương và cùng THANH BẰNG, rất hợp với nhau. 2- ÂM : Phải chọn những tiếng cùng một khuôn âm. Ví dụ : - Aâm ai thì hợp; với Thanh mai, khai, phai… - Aâm anh thì hợp với các Thanh khanh, tranh, manh… - Aâm oi thì hợp với những Thanh moi, noi, choi… Các khuôn âm giống nhau như vậy có thể là : - Một nguyên âm (voyelle / vowel) như A, I, O, U… - Một hoặc hai nguyên âm nối với nhau như AI, OI… Một nguyên âm ghép với một hoặc hai phụ âm (consonne / consonant) như AT, ANH, OACH… Sau đây là một bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến toàn là VẦN CHÍNH :"Chơi núi non nước" Chom chỏm trên sông đá một hòn Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn Phơ đầu đã tự đời Bà n cổBia miệng còn đeo tiếng trẻ con Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch Hòn câu Thái Phó tảng rêu tròn Trải bao nắng gió xuân già giặn Trời dẫu già nhưng núi vẫn non .Trên là thí dụ VẦN CHÍNH trong một bài ĐƯỜNG THI (sẽ giải thích ở dưới) là ở cuối câu thơ, nhưng trong các thể LỤC BÁT hay SONG THẤT LỤC BÁT, thì vần ở cuối hoặc ở giữa câu thơ : - VẦN CHÍNH trong LỤC BÁT : Kiều càng sắc sảo mặn maø So bề tài sắc lại laø phần hơn Làn thu thủ nét xuân sơn Hoa ghen thua thăm liễu hờn kém xanh(Kim Vân Kiều) - VẦN CHÍNH trong SONG THẤT LỤC BÁT : Buồn thay nhẽ xuân về hoa nở Mối sầu này ai gơõ cho xong Quyết liều mong vẹn chữ tòng Trên lương nào ngại, giữa giòng nào e. (Ngọc Hân công chúa khóc vua Quang Trung) B- VẦN THÔNG là vần chỉ hợp nhau về Thanh, còn Aâm thì tương tợ, chứ không hợp hẳn. Trong việc làm vă n văn vần (thơ) mà tìm cả Aâm cùng Thanh cho thực hợp cũng khó, nên các thi nhân đành phải chọn các tiếng tuy Aâm không giống nhau hẳn nhưng cũng tương tợ để ghép vần với nhau, như dưới đây :o với oâ nho với nhơ anh với inh chuông với chương ôi với trời im với em Thí dụ bài thơ của ông Tú Xương có VẦN THÔNG : " ĐỪNG NGHĨ TẾT TÔI NGHÈO"Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèoTiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu Rượu cúc nhắn đem, hà ng biếng quẩyTrà sen mượn hỏi, giá còn kiêu Bánh đường sắp gói, e đường chảy Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu Thôi thế thì thôi đành Tết khác Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèoThí dụ thơ lục bát có VẦN THÔNG : Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt nước khi đêm chén thề(Kim Vân Kiều) Thí dụ trong thơ song thất lục bát có VẦN THÔNG : …Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra Đố t phòng hương hả mà hơ áo tànAi ngờ tiếng dế than ri rỉ Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng (Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều) C- Vị trí của VẦN : a- Vần có thể đặt ở cuối câu thơ như : Cuối ngõ rèm xuân trải mấy sương Sắc tài chi lắm để làm gương… (Chu Mạnh Trinh vịnh truyện Kiều) Vần đặt ở cuối câu gọi là cước vận (cước là chân).Vần có thể đặt trong câu thơ như ở thơ lục bát trên đây. Vần đặt trong câu thơ gọi là yêu vận (yêu là cái lưng)Nhờ có vị trí của vần mà chúng ta có thể phân biệt thơ Việt Nam với thơ Trung Hoa vì vần trong thơ Trung Hoa bao giờ cũng đặt ở cuối câu. IV.- CÁC THỂ THƠ VIỆT NAM : Việt Nam có 5 thể thơ chính : 1) Ngũ ngôn : mỗi câu 5 chữ 2) Thất ngôn tứ tuyệt : mỗi câu 7 chữ, trong mỗi đoạn gồm 4 câu 3) Lục bát : một câu 6 chữ, một câu 8 chữ 4) Song thất lục bát : 2 câu thất ngôn chen vào 2 câu lục bát. 5) Thất ngôn bát cú (Thơ Đường) : 8 câu mỗi câu 7 chữ. 1) THƠ NGŨ NGÔN : Thơ Ngũ Ngôn mỗi câu có 5 chữ. Chúng tôi có nghiên cứu nhưng chưa tìm thấy sách nào nói rõ ràng về Luật và Vần thơ Ngũ Ngôn, mà chỉ thấy trong mỗi bài một khác. Sau đây xin sao lục một số bài thơ Ngũ Ngôn của một số thi nhân từ trước đến nay để quí vị độc giả thưởng lã m và nghiên cứu.- "Đầu mù a hạ" của cụ Nguyễn Khuyến :Tháng tư đầu mù a hạTiết trời thực oi ả Tiếng dế kêu thiết tha Đà n muỗi bay lả tảNỗi ấy ngỏ cùng ai Cảnh này buồn cả dạ Biếng nhắp năm canh chầy Gà đã sớm giục giã. - "Mừng khách" của Tú Xương : Ngày Xuân mừng quí khách Khi vui lo đà n pháchChuyện nở như gạo rang Chuyện dai như chão rách Đổ cỏ b ốn chân giườngXiêu cả một bức vách. - "Ông đồ" của Vũ Đì nh Liên :Mỗi năm hoa đà o nởLại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. - "Đi chù a Hương" của Nguyễn Nhược Pháp :Hôm nay đi chù a HươngHoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy mẹ em dậy Em chải đầu soi gương…- "Mùa cổ điển" của Quách Tấn : Sương xuống hồi chuông lặng Dư âm tròn hư không Lửng lơ vàng gợn sóng Trăng hồ thu mê nh mông.- "Gánh nước đê m" của Đông Xuyên :Đỉnh đầu một bóng trăng Trên vai một gánh nước Đường khuya xóm Bà n CờMột cô cao thấp bước. - "Tranh Xuân" của Mộng Nguyệt : Náo nức tin Xuân đến Năm tà n dám nghỉ kimMay nhanh chiếc áo Tết Hí hửng mặc chàng xem. 2) THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT : Tứ là bốn, tuyệt là dứt ra, ngắt ra. Thơ Thất ngôn Tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong một bài thơ Thất ngôn Bát cú. Thí dụ bài thơ bát cú của cụ Nguyễn Khuyến : "BẢY MƯƠI TƯ TUỔI" Năm nay tớ đã bảy mươi tưRằng lão rằng quan tớ cũng ừ Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu Khi buồn ngâm láo một câu thơ Bạn già lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng như Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa Thử xem trời mãi thế này ư. Bài thơ này có thể ngắt ra làm nhiều đoạn. (a) Ngắt bốn câu trên thành ra bài thơ bốn câu ba vần : Năm nay tớ đã bảy mươi tưRằng lão rằng quan tớ cũng ừ Lúc hứng uống thê m dăm chén rượuKhi buồn ngâm láo một câu thơ. Trong đó có hai câu (3 và 4) đối với nhau. (b) Ngắt bốn câu dưới thành ra bài thơ bốn câu hai vần, hai câu trên có đ ối, hai câu dưới không đối :Bạn già lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng như Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa Thử xem trời mãi thế này ư. (c) Ngắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, cả bốn câu có đối : Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu Khi buồn ngâm láo một câu thơ Bạn già lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng như. (d) Ngắt hai câu đầu và hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không đối :Năm nay tớ đã bảy mươi tưRằng lão rằng quan tớ cũng ừ Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa Thử xem trời mãi thế này ư. (e) Ngắt ra bốn câu 1, 2, 5 và 6 thành ra bài thơ bốn câu ba vần : Năm nay tớ đã bảy mươi tưRằng lão rằng quan tớ cũng ừ Bạn già lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng như. Như thế, thơ thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ cứ ngắt bốn câu trong bài thơ thất ngôn bát cú mà thành. Nhưng cũng có thi nhân cứ theo luật Bằng, Trắc và biệt lệ nhất, tam, ngữ bất luận * (của thơ Thất Ngôn Bát Cú) mà làm từng đ oạn bốn câu thơ một, rồi đem nối lại với nhau, thành một bài thơ dài.Thí dụ một bài thơ Tú Xương : Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu Phen này ông quyết đi buôn cối Thiên hạ bao nhiêu đức giã trầu. Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang Đứa thì bán tước, đứa mua quan Phen này ông quyết đi buôn lọng Vừa bán vừa la cũng đắt hà ng…Hay như Nguyễn Bính : Nhà ta ở dưới gốc cây dương Cách động Hương Sơn nửa dặm đườngCó suối nước trong tuôn róc rách Có hoa bên suối ngát đưa hương. Hỡi cô con gái hái mơ ơi Chẳng trả lời tôi lấy một lời Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi. ( Xin đón đọc kỳ sau : Các thể thơ Việt Nam, Lục Bát, Song Thất Lục Bát, Thất Ngôn Bát Cú)* BIỆT LỆ NHẤT TAM NGŨ BẤT LUẬN : Bất luận (=không kể) nghiã là trong một câu thơ có vài chữ không cần phải theo đ úng luật Bằng hay Trắc. Trong câu thơ Đường (sẽ nói rõ kỳ tới) thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không phải theo đúng luật Bằng hay Trắc.Song Thái Phạm Công Huyền
|
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002
|