|
Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn hồi ký:
"GỌNG KÌM LỊCH SỬ" VÀ TÁC GIẢ BÙI DIỄM
Mạc Kinh
Trời Paris vào thượng tuần
tháng 3/2001 đầy mưa và gió lạnh. Thời tiết thật xấu. Nhưng có cái lạ, là
ngoại cảnh đổi thay thế đó vẫn không mảy may ảnh hưởng đến tâm hồn du
khách – mà cứ phải là người khách phương xa Việt Nam kia, nhất lại, đã
từng có một thời trẻ trung chôn chân bên dòng sông Seine tình tứ. Vì cứ
phải là kẻ giang hồ lữ thứ ấp ủ một tâm sự về nỗi nước tình nhà mới cảm
nhận bằng hết niềm rung động man mác trước trời Ba Lê hoa lệ đổi mầu. Cái
trẻ ở một thời lãng mạn hay cái lãng mạn còn vấn vương trong buổi hoàng
hôn đời người thực là huyền ảo. Như quyện với nhau để rồi hòa tan trong
cung đàn thơ mộng ở nhà thơ, nhà nhạc sĩ Cung Trầm Tưởng mãi mơ màng nhớ
về Paris muôn thuở. Hoặc, ở một văn tài trí thức Nguyễn Mạnh Tường ngày xa xưa,
vào cái đêm người du học sinh ấy giã từ bóng dáng kiều diễm người bạn tình
- nàng thiếu nữ đất Ba Lê, để đặt chân xuống con tầu biển vượt trùng dương
trở về xứ sở quê hương, lưu luyến thốt lên... Ecoute! viens t’asseoir
auprès de moi avec tes yeux de tous les jours... Vâng, cái ánh mắt nhẹ như
sương khuya, dung dị có như thế nhưng đã là một trời thương nhớ ray rứt
bao la đeo đuổi người ta suốt cuộc đời. Bây giờ hồi tưởng lại, hầu hết bạn
đọc và chúng tôi trong nhiều thập niên thăng trầm chìm nổi, từ những buổi
thoạt lao mình vào khói lửa chiến chinh ôm mộng dành độc lập giữa mùa thu
1945 thử hỏi còn lại được gì? Có biết bao sự việc đã tan biến trong tiềm
thức, không còn muốn nhớ. Song có biết bao sự thật đau đớn chua xót liên
quan đến một giai đoạn lịch sử sóng gió nhất, bị phản bội bi thảm nhất của
nước nhà – trong quá trình dài vô tận ấy muốn quên lại vẫn khắc khoải,
canh cánh bên lòng.
Không phải vì ngẫu nhiên, vì
vô tình mà kẻ viết bài mở đầu trang báo hôm nay mượn khóe mắt giai nhân
trong đoản thiên tiểu thuyết của nhà khoa bảng đáng thương Nguyễn Mạnh
Tường để bàn chuyện nước nhà Việt Nam. Chúng tôi cố tình. Trong sự cố tình
ấy, mong được bạn đọc cảm thông và lượng thứ. Vì, tình yêu đất nước về một
mặt nào đó cũng ví như tình yêu người đẹp. Nó cứ đến một cách hồn nhiên,
thành khẩn, tha thiết. Nó đến từ một rung động ở ánh mắt, ở đáy hồn.
Người bần cố nông Cộng sản
VN chiến đấu vì miếng cơm manh áo. Họ muốn đổi đời – từ cuộc sống lam lũ,
nghèo hèn ở chốn ao tù nước đọng sang cái cảnh dành đoạt lại của cải,
ruộng vườn, sự giàu có trong tay các giai từng mà họ mệnh danh một cách
hận thù "giai cấp bóc lột."
Người trí thức, tiểu tư sản
VN lại chiến đấu không vì manh áo miếng cơm. Không hằn học, thù hận. Học
thức, kiến thức, sự sung túc mở rộng nhãn quan trí tuệ của họ cho phép
nhìn xa hơn những gì chỉ quanh quẩn trong bát cơm, chén cháo, manh quần
tấm áo vá chằng vá đụp sau lũy tre xanh. Họ có nhiều lãng mạn tính, mơ
tưởng một chân trời mở rộng có tiếng nhạc nét họa, văn hóa và văn hiến. Họ
ấp ủ một lý tưởng, một hoài bão dành lại chủ quyền cho đất nước, giải
thoát cho cả một dân tộc đắm chìm trong họa mất nước. Từ đó có điều kiện
vươn lên cho các thế hệ tiếp nối của giống nòi Hồng Lạc, sánh kịp theo
trào lưu văn minh ở thế giới bên ngoài.
Thời gian 1945 là khúc quặt
lịch sử trăm năm mới có một lần. Chế độ thuộc địa Pháp tan vỡ khắp 3 miền
VN. Nhưng rồi, chỉ trong khoảnh khắc, tiếng súng kháng chiến toàn quốc
1946 bùng lên. Nghe theo tiếng gọi Núi Sông, các giới tiểu tư sản trí thức
quan lại phú nông sẵn sàng bỏ tất cả cuộc đời riêng để tung mình vào cuộc
chiến, bảo vệ nền độc lập phôi thai ấy. Họ chưa nghe, chưa hay biết gì về
tiếng gọi xa lạ "Cộng Sản". Họ chấp nhận chiến đấu hy sinh. Và mường tượng
cảm nhận – bên cạnh họ có những phần tử vô sản, nghèo khổ, thất học nhưng
chất phác, hiền hòa. Chủ thuyết Mác Xít chưa có thì giờ, hoàn cảnh, để làm
biến chất tàn nhẫn cái gốc lương thiện ở những người răng đen mã tấu ấy
như về sau này. Súng ống, đạn dược nào đã có là bao? Cứ phải có tinh thần
thay cho vũ khí. Hàng triệu thanh niên trí thức tiểu tư sản – sinh viên –
học sinh đã là động lực chính yếu nhập cuộc, làm đầu tầu cho khối quần
chúng chỉ mới có trong tay những chiếc gậy tầm vông.
Máu lửa ngập trời Thăng
Long. Họ quyết tử. Họ cứ như một Nguyễn Văn Nhung – người sinh viên Trường
Luật, người đã sớm đón nhận lời dặn dò của Liệt sĩ anh hùng Nguyễn Thái
Học... "không thành công thì thành nhân"..., người đã bắc thang lên mặt
thành cửa bắc Hà nội cầm loa kêu gọi binh lính Pháp buông súng đầu hàng
khi cuộc chính biến 9.3.45 Nhật hạ Pháp xẩy ra. Bị gục ngã trước lằn đạn,
Nguyễn Văn Nhung đã chính là người Việt nam đầu tiên đổ máu đào cho nền
độc lập sau 80 năm mất nước. Đám tang anh ở ngày kế tiếp, theo sau linh
cữu là vị hôn thê sắp cưới của anh đã là cả một thiên tình sử lãng mạn
cách mạng vô cùng truyền cảm đến toàn giới tuổi trẻ Hà nội lúc bấy giờ.
Trước đêm đảo chính một ngày, Nguyễn Văn Nhung và nhà văn Tam Lang Vũ Đình
Chí (tác giả thiên phóng sự nổi tiếng "Tôi Kéo Xe" và còn là nhà báo
chuyên viết bình luận mà giới cầm bút Bắc Hà cảm mến) được Hiến Binh Nhật
bản bí mật mời đi, đến một doanh trại cô lập hoàn toàn, để soạn thảo Lời
Hiệu Triệu quốc dân, trước giờ Quân Đội Phù tang nổ súng lật đổ chế độ Bảo
hộ Pháp ở VN và trên toàn cõi Đông Dương.
Cùng với nhân dân Miền Nam
kháng chiến, đoàn quân thanh thiếu nữ đất Hà thành của Bà Trưng Bà Triệu,
của Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung... ở lịch sử ngàn
xưa, sau những ngày đêm chiến đấu giữa lòng thành phố đã phải rút khỏi thủ
đô Hà nội đổ nát, trở về bao vây các thị xã Miền Bắc đặt trong gọng kìm
của quân đội viễn chinh Pháp vừa trở lại tái chiếm VN. Toàn bộ chính phủ
trung ương tháo chạy lên Cao Bằng Lạng Sơn Thái Nguyên (Việt Bắc) ẩn nơi
rừng núi trùng trùng điệp điệp. Cơ sở kháng chiến vùng đồng bằng vội vã
được thiết lập, dưới danh xưng Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Liên Khu III
(gồm các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên,
Hải Dương, Kiến An, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Phòng và thành phố Hà nội). Tất
cả hàng ngũ tiểu tư sản, trí thức, công chức quan lại đổ xô về quy tụ,
tiếp tục kháng chiến trong khẩu hiệu "Toàn Dân Kháng Chiến". Không một ai
thắc mắc, hoài nghi về cơ cấu lãnh đạo. Chỉ có kháng chiến với kháng
chiến. Không có Cộng sản lộ diện, lộ diện về đường lối vô sản. Đảng viên
CS nếu có, hầu như chỉ mới là một nét vạch nhỏ giữa những đường chỉ tay
trong lòng một bàn tay. Họ cũng chỉ mới nhiều-nhiều hơn một chút,
đông-đông hơn một chút so với ngày đầu tiên phong trào Việt Minh xuất
hiện, hay lúc đoàn Giải Phóng Quân CS công khai ra mắt ở Hang Pác Bó đếm
vừa đủ một tiểu đội súng dài hơn người với tướng Võ Nguyên Giáp sau này,
cùng chụp chung bức ảnh xuất phát kia.
Từ 1946 đến 1954, Liên Khu
III vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương. Người đi chiến đấu cứ chiến đấu.
Người công tác ở phía sau, đôi khi sát liền mặt trận, có trăm công ngàn
việc lớn nhỏ - cứ tận tình đóng góp với tất cả khả năng, sáng kiến, trong
kỷ luật tự giác tuyệt đối. LK III lúc bấy giờ hầu như là vùng đất Hà thành
ngàn năm văn vật thu nhỏ lại, hội tụ hằng hà sa số các nam nữ thanh niên
trung lưu, thanh lịch, từng có một thời nổi tiếng là những dân "cậu",
những "công tử", những nàng kiều nữ tóc thề xinh tươi của những con đường
thơ mộng Cổ Ngư, Quan Thánh, của những đường phố Hàng Đào, Hàng Ngang,
Hàng Than, Hàng Bạc... trước ngày tiếng súng bùng nổ. Hay, những chàng
trai túa ra từ các trường Bưởi, Thăng Long, Gia Long, Pasteur... của Hà
nội thuở nào. Nhung-y chỉ là bộ đồ kaki hoặc chiếc áo trấn thủ khoác trên
người với chiếc ba-lô tài sản độc nhất quàng sau lưng. Họ lao mình đi
chiến đấu thế đó! Học đánh giặc là điều không mấy khó. Đụng độ, xáp trận
đôi ba lần rồi quen. Miễn cứ có tinh thần. Và nào có phải là tinh thần Vô
sản đâu? Tất cả, hầu như chỉ mới có duy nhất một tinh thần... lãng mạn:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt... Xếp bút nghiên theo việc đao cung...
Đấy, từng từng lớp lớp nhân
dân đất Việt, ngoài Bắc cũng như trong Nam, khởi thuỷ đứng lên đánh ngoại
xâm, xây dựng nền độc lập là vậy đó. Đoàn quân Việt Minh đâu? Cộng sản
đâu? Việt cộng là đâu? Trong hàng ngũ trí thức, tiểu tư sản ở LK III sẵn
sàng đem đoạn đời cá nhân cho công cuộc dành độc lập gồm khá nhiều các nhà
luật học, bác sĩ, công chức, quan lại, thương gia, nhà thơ, nhà văn, nhà
báo, nhà nhạc sĩ như Bùi Hữu Khách, Vũ Tiến Tuân, Vũ Văn Huyền, Bùi Hòe
Thực, Nguyễn Duy Quang, Lại Tư, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc, Đặng Mộng
Ruẩn, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Tuân Sán, Vũ Tuấn San, Trần Chánh Thành, Bùi
Suyến, Đỗ Xuân Sảng, Lê Văn Chất, Đoàn Kiểm, Phạm Hữu Chương, Trần Hữu
Tước, Hoàng Văn Chí, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Tchya Đái Đức Tuấn, Hoàng Nguyên, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Mai Văn
Hàm, Phạm Quang Khai, Lê Khải Trạch, Vũ Bằng, Quang Dũng, Hữu Loan, Phạm
Duy, Phạm Đình Chương, Lương Hàm Châu, Văn Cao... Kể sao cho xiết? Nhưng
chỉ biết rằng, về sau này, khi chiếc mặt nạ CS rớt xuống, 9/10 trong bọn
họ đã bằng mọi cách tìm đường ly biệt CS, trở về vùng quốc gia mới vừa tái
thành lập trong tay Cựu hoàng Bảo Đại. Nói cho cùng, dẫu có những điều
đáng trách, nhà vua thoái vị ấy vẫn có cái giá trị mà lịch sử VN không thể
gạt bỏ sang bên được. Nếu ông không tái xuất hiện vào cuối thập niên
49-50, Việt Nam đã nằm gọn trong tay VM Cộng sản để chẳng bao giờ có được
hai thời đệ nhất đệ nhị Cộng Hòa ở Miền Nam. Và, cho dù nước mất vẫn còn
lưu lại một huyền thoại "quốc gia" để ngày nay hàng ngũ người Việt có tinh
thần dân tộc nói chung đang chuyển mình mạnh mẽ vào quỹ đạo tự do dân chủ,
phục kích ngày CS tan rã sụp đổ trên giải đất quê hương đã có quá nhiều
đau thương. Có cơ hội thì nói nhiều viết nhiều, bằng không, tối thiểu phải
nhắc đến chút ít về một giai đoạn lịch sử mở đầu cuộc kháng chiến, để thật
giản dị và mau chóng chứng minh sự hy sinh xương máu, sự đóng góp lớn lao
của quốc dân VN và rồi bị người CS trở mặt, đi theo Nga cộng, Tầu cộng
cướp công, tàn sát người đồng chủng không tiếc thương. Tàn sát ngay trong
phong trào đấu tố miền Bắc. Tàn sát không nương tay mọi giới quốc dân Miền
Nam vào ngày tháng sau 75. Và đến tận bây giờ - đọa đầy tuyệt đại đa số
người dân ba miền Trung Nam Bắc trong nghèo túng đói rách triền miên. Để
đúc kết một nét nhìn chung cuộc về cái thắng cái thua giữa thực chất quốc
gia với cộng sản trên đất nước chúng ta, tưởng phải thẳng thắn nhìn nhận,
ở giai đoạn quá khứ, hàng ngũ dân tộc có tất cả thế thượng phong, hội đủ
điều kiện tốt đẹp - kể cả tinh thần vì nước sau ngày chủ quyền bảo hộ Pháp
tan biến. Nhưng đáng tiếc chúng ta không có kinh nghiệm tổ chức, rời rạc
lỏng lẻo trong kết hợp. Thiếu luôn cả phương pháp và kỹ thuật đấu tranh.
Thiếu "hồn lãnh đạo"! Ngược lại phe CS đã có ngay một pho sách đầy đủ và
phong phú cùng kinh nghiệm được hoạch định sẵn từ "quốc tế CS
Lénine-Staline" và Mao Trạch Đông. CSVN chỉ việc dựa vào đấy mà khai thác,
áp dụng. Chính sách của CS là cướp của người thành của mình. Phương pháp
CS là từng bước nắm chặt những gì đã đoạt được, nhất là "chính quyền" và
không bao giờ chia cho ai cả. Thực là điều chẳng đáng dành một thoáng chốc
nói ra, song để dễ bề so sánh, xin nhắc vội, sơ lược, về một cái tổ chức
sau 1975 có chung những mẫu tự tiền định "H.C.M": Lòng yêu nước sôi nổi ở
người dân Việt hải ngoại lại đã là nhược điểm để dẫn đến sự cả nghe, cả
tin. Chỉ mới "sơ sơ có thế", thì HCM này đã nhận được cơ man là từ tâm ủng
hộ của ngưòi đồng chủng dưới trời tây phương. Huống hồ, ngày xưa - với
"bậc thầy" xảo quyệt như HCM kia, toàn dân phải chết là cái chắc. Thôi
thì, chỉ còn cách ngậm bồ hòn làm ngọt, tự thầm nhủ an ủi: Khối dân tộc VN
ngày nay đã rút tỉa được Một Bài Học Lịch Sử!
Và, bài học ấy nếu không còn
cơ hội đem thực hiện, thì ít ra cũng giúp cho người ta có một nhãn quan
tìm hiểu, phân định đâu là sự thật và những sự "chẳng thật" trong những
cuốn sách viết về đất Việt và lại do người Việt viết ra. Trong chiều hướng
suy tư ấy, mời dư luận hãy cùng chúng tôi xét lại tổng quát nội dung cuốn
hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử của tác giả Bùi Diễm vừa xuất bản ít
tháng qua trên đất Hoa Kỳ và Âu Châu.
Với những vị chưa đọc thì
bài báo này là một bản tóm tắt những vấn đề được đề cập trong tác phẩm.
Với những vị đã đọc, nhất lại còn có thêm dịp dự thính buổi nói chuyện vào
ngày Ra Mắt Sách của chính tác giả ở chiều chủ nhật 11-3-2001 tại phòng
họp Lisbonne, số 30 đường Canabis quận 14 Paris, thì bài báo sẽ được coi
như một tài liệu đối chiếu với ý nghĩ thầm kín của tác giả. Và trong
trường hợp ấy, tất cả quý vị đều trở thành những nhà trọng tài quý giá
trên văn đàn nghị luận lẫn ngôn đàn chính trị, lịch sử. Tuy nhiên, để có
ngay bầu không khí thoải mái, đánh tan ấn tượng gay gắt thường thấy trong
những cuộc phê bình, chúng tôi xin loại bỏ mọi lời lẽ xa cách văn chương.
Nếu vạn bất đắc dĩ phải đặt bút phẩm bình cuốn sách, không ngoài ý định
đưa ra lời khuyến cáo chung đến "thành phần các tác giả" (nguyên điểm này
đủ là một sự gì không thực trọn vẹn tao nhã đúng ý muốn của chúng tôi.
Nhưng đành vậy!) Trong các ông, ai cũng có quyền viết hồi ký nhưng hãy
thận trọng khi viết về dân tộc và đất nước Việt Nam. Xin chớ quá ỷ y, náu
mình vào những rào đón tưởng là khôn ngoan nhất để rồi làm sai lạc tinh
thần cùng sự hy sinh xương máu vô bờ bến của người đồng chủng ba miền
Trung Nam Bắc (như chúng tôi đã gián tiếp nêu ra trong đoạn dài mở đầu đề
tài hôm nay). Toàn cuốn sách Gọng Kìm Lịch Sử, chung quy gồm có 2 phần
chính yếu:
* Làm nổi bật giá trị cá
nhân, đời tác giả, và kín đáo biện minh cho những hoạt động, những điều
tiếng đã có, cùng sự hiện diện của ông bên cạnh ô. Kỳ rồi ô. Thiệu cho đến
ngày Miền Nam mất vào tay CS.
(Trong thực tế, tên tuổi ô.
Bùi Diễm chỉ thực sự được biết đến bắt đầu từ 1965, sau khi Thủ tướng Phan
Huy Quát đưa ông vào Chính phủ. Và chỉ đóng khung quanh quẩn ở đấy. Ngoài
quần chúng nhân dân, không ai lưu ý cho lắm. Vẫn trong cung cách ấy, tên
tuổi tác giả sáng lên, ở thời gian kế tiếp khi ông đầu quân vào nhóm của
ô.Kỳ và có chân trong "Nội các của dân nghèo". Lại càng sáng thêm nữa, lúc
ô.Kỳ bị người Mỹ lật nhào, trao cờ vào tay ô.Thiệu phất, tác giả vẫn được
ô.Thiệu lưu dụng cho đến sát ngày tháng 75. Suốt thời gian dài này, riêng
giới báo chí Miền Nam càng biết rõ về ông hơn. Họ ghi nhận cái giỏi trong
những cái giỏi nơi tác giả là thế đó.)
* Nhân danh cựu đại sứ
VNCH tại Hoa Thịnh Đốn và là Đại sứ Lưu động, con thoi thường trực giữa
Hoa Kỳ và TT Thiệu, tác giả BD dành nửa phần cuốn sách để nói về cuộc
chiến VN - giữa Người Mỹ và CS Miền Bắc. Tác giả nêu sơ lược về phía CS, dồn tất cả cho
chuyện nội bộ chính trường VNCH mà nhìn chung dư luận Miền Nam đã có hay
biết. Người đọc nhẫn nại theo dõi ông, hy vọng ông tiết lộ những điều mới
lạ, kỳ bí về Hoa Kỳ - đặc biệt về nguyên nhân tại sao Mỹ quốc thí bỏ phần
đất đồng minh "tiền đồn chống Cộng" này? Hoa Kỳ thua CS – thua thật hay
thua giả, với mục đích gì? Tại sao guồng máy chiến tranh Hoa Kỳ tung cả
nửa triệu quân Mỹ nhập cuộc với những vũ khí hùng hậu khiếp đảm đánh Cộng
quân, và đánh mà không để lấy thắng!? Dựa vào điều ông thuật thì ông vốn
là một nhân vật sáng chói ở địa hạt ngoại giao, ông quen biết hầu hết các
khuôn mặt lớn trong chính giới Hoa Kỳ, kể cả Tổng thống Mỹ quốc nên người
đọc đã có lúc lầm nghĩ ông sẽ nói ra được những điều "nghĩa lý" hơn. Những
Đại sứ các quốc gia khác có khi phải chờ đợi cả năm mới được vị nguyên thủ
Tòa Bạch Ốc nhận lời tiếp. Riêng ông, bất cứ lúc nào, chỉ cần 2 tiếng đồng
hồ thông báo trước, là gặp ngay. Ngồi tại Saigon, có lúc ông đập bàn, bất
bình với cả Đại sứ Mỹ Bunker (nhà ngoại giao mà báo giới Miền Nam thường
gọi là "Ông già tủ lạnh", do bản chất trầm lặng ở ông ta), đòi hỏi Đs
Bunker phải vào Dinh ĐL làm áp lực với ô.Thiệu trước nạn tham nhũng bành
trướng khủng khiếp. Hãy cứ tin như vậy đi, nhưng lại phải cứ hỏi Đs Bùi
Diễm đích thực là ai?
Có điều, người ta đã thất
vọng, vì những thắc mắc thực tế nhất ở giai đoạn bi thảm cuối cùng của
Miền Nam vẫn bị khép kín trong vòng bí mật tuyệt đối. Cựu Đs Bùi Diễm viết
sách chỉ để giải thích, tự giới thiệu về đời ông, và đưa ra một ảnh hưởng
đến người đọc: Chính phủ Hoa Kỳ không có chủ trương, chính sách rõ rệt nào
cả. Người Mỹ chập chững, sa lầy vào cuộc chiến, rối như mớ bòng bong!
Thưa, luận đến như tác giả
nay đương là Chủ tịch Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Thái Bình Dương (Hoa Kỳ),
thì người ta đành phải quay về mà tin vào cái điều đã thấy trước mắt: Với
một Hoa Kỳ "lúng ta lúng túng" như thế, làm sao lại đã có thể chiến thắng
trong cuộc chiến tranh lạnh, đoạt thế vô địch toàn cầu, làm tan vỡ khối
Cộng Đông Âu, xóa bỏ Đông Đức, đẩy Liên Bang Sô Viết vào vòng yếu kém, ngơ
ngác, tan hoang. Và tại Trung đông quét sạch ảnh hưởng CS Nga, dành thế
chủ động ở vùng đất Ả Rập bao la đầy bất trắc. Và đang ngày đêm bao vây,
ngăn chận nanh vuốt hiếu chiến, lớn mạnh, của Trung Cộng?
Chưa đủ. Gần nhất, lại phải
nhìn vào thái độ quyết liệt của Hoa Kỳ tận diệt chủ trương diệt chủng của
Nam Tư ở Kosovo được Nga Sô và Trung Cộng tích cực hậu thuẫn cho
Milosevic. Và toàn khối Âu Châu, ngoại trừ Anh quốc, thì đều thờ ơ, thụ
động, quay lưng với Hoa Kỳ. Nhưng Nguời Mỹ có ngán ai đâu? Cần đến ai đâu?
Lúc thật sự cần biểu lộ sức mạnh của Mỹ quốc, họ không một chút chần chừ,
cho thả bom chính xác xuống tòa đại sứ TC trên đất Nam Tư để dằn mặt, và
dồn các quốc gia trong khối Nato phải đi vào quỹ đạo Hoa Kỳ, bắt Milosevic
giải giáp quy hàng.
Cho nên, đọc sách của tác
giả BD luận bàn chuyện cũ, về đường lối của Hoa Kỳ trong cuộc chiến VN,
chúng tôi không khỏi giật mình. Có nhiều nét chính yếu, tác giả giải
thích, trình bầy khá giống, khá ăn khớp với những điều mà cựu bộ trưởng QP
McNamara đã viết trong tập hồi ký của ông ta. Cứ có thể ngầm hiểu như là
bộ máy chiến tranh Mỹ quốc được đặt vào tay những nhân vật trọng yếu tối
cao, mắt bít kín, tay cầm chiếc gậy lò dò, sờ soạng bước ra chiến trường!
Hãy mặc kệ McNamara, có nhiều phần "nhận chỉ thị" từ chốn thâm nghiêm Hoa
Kỳ để lồng ý ấy vào tác phẩm của ông đánh lạc hướng sự tìm hiểu ở thế giới
bên ngoài. Uy tín của McNamara đâu đã thấm với Đại tướng Tổng Tư Lệnh Quân
Đội Mỹ Thái Bình Dương Mc Arthur trong cuộc chiến ở Triều Tiên? Danh tướng
ấy chủ trương ném bom nguyên tử xuống Bắc Hàn – đi ngược lại với sách lược
của Hoa Thịnh Đốn, và vì thế bị cấp bách triệu hồi về Mỹ.
Ở địa vị tác giả là người có
điều kiện tiếp xúc với giới chức cao cấp Mỹ quốc, thiết tưởng, nếu không
biết được những điều gì ý nghiã hơn thì cũng đừng nên để rớt vào màng lưới
chính trị thiên la địa võng của Hoa Kỳ, làm sai lạc sự tìm hiểu Hoa Kỳ ở
thế hệ kế tục ngày nay. Người Mỹ đang còn nhiều duyên nợ mắc mứu với nhân
dân VN (không CS) chúng ta lắm. Vậy, nếu không đem họ làm đối tượng nghiên
cứu, tìm biết rõ hơn về đường đi nước bước của họ, thì rồi đây, cho dù có
cuộc "đổi đời" ập tới, giai đoạn xây dựng lại một đất nước dân chủ, tiến
bộ vẫn còn khúc khuỷu, gập ghềnh lắm. Các chế độ và các nhà lãnh đạo Miền
Nam ngày xưa cũng chỉ vì không tính nổi Hoa Kỳ với chính sách của họ mà
cuối cùng hỏng đại sự.
Trong toàn bộ cuốn sách, tác
giả rào đón thật kỹ, thật tinh vi. Sử dụng một bút pháp cực kỳ khôn ngoan,
dưới một hình thức hiền hòa, tưởng như vô tư – không hề đặt cái "tôi" bên
trong. Tất cả tên tuổi các nhân vật sáng giá nhất trong xã hội chính trị,
cách mạng VN đều được ông nhớ đến, nêu ra. Và hễ đã có họ thì nhiều ít
phải có ông ở bên (Điều đó mới là đáng kể). Xin tạm lấy một thí dụ diển
hình: Ở tuổi đời 30, đã có lúc tác giả trực tiếp nói chuyện với Nhà Vua
Bảo Đại, tác giả ngỏ lời khuyên Quốc Trưởng về nước, phải về nước (vào lúc
Hiệp định Genève chia cắt VN làm 2 miền), đại để: Nếu Ngài không về lúc
này thì sẽ không bao giờ có cơ hội để về nữa...
Và, QT đã hỏi ý kiến tác giả
nghĩ sao về người Mỹ v.v...và v.v...
Đáng tiếc ngày nay Cựu Hoàng
đã qua đời. Chúng tôi xin quay sang hỏi quý vị nào đã từng nghe biết, gần
hoặc xa (một cách nghiêm chỉnh) về cốt cách, cá tính nơi Cựu Hoàng - nghĩ
sao đây? Chỉ nghĩ sao thôi là đủ, không cần tranh cãi, tranh luận.
Cựu Hoàng vốn là người trầm
mặc. Muốn nói gì thì nói, những người đứng trước Ông buổi ấy vẫn phải nhìn
nhận Ông có nét uy nghi đáng nể. Chủ tịch CS Hồ Chí Minh chưa hề thiếu cử
chỉ lễ độ trước Ông. Và cũng lại phải thật gần nhà lãnh đạo nền Đệ nhất CH
Ngô Đình Diệm mới có thể cảm thông nỗi khổ tâm riêng vào lúc tình thế đẩy
TT Diệm phải đồng ý với giải pháp Trưng Cầu Dân Ý "truất phế Bảo Đại". Tự
TT Diệm không muốn làm điều đó. TT Diệm không phải là "tác giả" kế sách ấy
đâu.
Dưới trướng CH Bảo Đại có
hàng rừng người đáng để Ông hỏi về việc nước, nhưng lại rất ít ai được Ông
chọn và hỏi. (Và tất cả đều thận trọng lời nói trước Ông). Càng là những
vấn đề liên quan đến người Pháp, người Mỹ. Chẳng lẽ CH Bảo Đại lại đi tìm
hiểu Hoa Kỳ qua một anh thư sinh vừa nói tạm thông tiếng Mỹ và hơn mười
năm sau nữa mới được tuyển lựa vào ngạch ngoại giao, cử sang Hoa Thịnh
Đốn? Trong đáy hồn Cựu Hoàng vẫn có một biển trời tâm sự – và được khép
kín. Ông đâu dễ để ai đoán biết?
Tác giả Bùi Diễm vẫn có toàn
quyền phóng bút, và độc giả vốn không có thì giờ suy nghĩ nhiều, nên vào
lúc đọc những điều ông viết ra cứ bị ám ảnh bởi tuổi đời xấp xỉ 80 của tác
giả hiện tại, và từng là một cụu đại sứ. Do đó, độc giả đã quên khuấy thời
điểm và không gian mà "nhân vật tác giả dệt chuyện" mới vừa thoát qua lằn
ranh... búng ra sữa bước vào đời chính trị!
Tác giả Bùi Diễm có thể vì
đa mang nhiều mộng lớn cùng một lúc, trong đó có cái mộng "đem tên tuổi
vĩnh viễn đi vào lịch sử"... (như lời vị phát ngôn viên Đỗ Văn của ông đã
nói thay) nên ông để lộ sơ hở vào lúc ông muốn chứng minh ông còn là nhà
cách mạng còn là một lãnh tụ chính trị của đất nước Việt Nam. Để dẫn
chứng, chúng tôi xin viện dẫn tình tiết nhỏ (mà rất quan trọng) sau đây.
Ngày xưa ấy, tiếng súng chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tác giả tản cư về
vùng Phát Diệm (thánh địa trong quyền hạn Đức TGM Lê Hữu Từ). Ở tuổi 23,
24 là cùng, ông đâu có làm gì để VM truy lùng ông gắt gao? (cho dù ông có
liên lạc đôi lần với đảng trưởng Đại Việt Trương Tử Anh từ thời Pháp
thuộc). Nhưng ông không muốn tham gia kháng chiến, tức là không muốn đánh
nhau với Pháp, hàng ngày ông ung dung đi dạy học tư ở mấy cái trường Công
lập, Dân lập Yên Mô Thượng, Yên Mô Càn rồi chiều chiều vẫn yên tĩnh thả bộ
ra thị trấn nho nhỏ ở bên sông Phát Diệm có khá nhiều gian hàng vách đất
lợp tranh xinh xắn trong tay những bóng hồng từ Hà nội, Hà đông... tản cư
về, đứng buôn bán. Nhiều lúc, ông tính vượt biên nên đã tìm đường từ Phát
Diệm đến Châu Mường tỉnh Thanh Hóa - từ đấy băng rừng già đầy cọp vằn beo
gấm sang Lào. Bất kỳ ai đã ở LK 3 đều phải biết, thuở ấy, con đường dễ
dàng hơn cả là từ Phát Diệm thoát vào thành phố Nam Định thật gần, thuận
tiện nhất. Tác giả tất biết Thanh Hóa rồi chứ? Tỉnh này có 14 Phủ, Huyện
với 6 châu Mường (địa đầu của LK 4), xa thăm thẳm với Phát Diệm. Quả quyết
với ông rằng, vùng đất kháng chiến này, vấn đề cảnh giác an ninh cao độ,
con chồn con cáo khó lọt qua. Ông chưa thể mò mẫm đến Bái Thượng, chỉ vừa
lò dò đến gần vùng huyện Yên Định, mộng vỡ mất rồi. Mộng vỡ nhưng có toàn
thân không?
Chúng tôi có đọc sách Ông
khá kỹ, và mỉm cười thầm nghĩ về sự thận trọng, chu đáo ở Ông trong mọi
tình tiết, nhằm giải đáp sao cho thỏa đáng "ở lứa tuổi phải dấn thân, phải
nhập cuộc, phải cầm súng đấu tranh cho quê hương trước một sự lựa chọn
phức tạp giữa hai bước đường quốc gia và cộng sản".
Giá Ông đừng quá tỉ mỉ, quá
khôn khéo đến độ (vô tình) phỉ báng các thế hệ quốc gia dân tộc đã hy sinh
cho công cuộc kháng chiến dành độc lập, và để rồi còn (vô tình) bào chữa
cho bộ mặt phản bội toàn dân ở người Cộng Sản, chưa chắc chúng tôi đã thấy
cần thiết phải "tổng phản công" vào... "Gọng Kìm Lịch Sử" của Ông.
Cả đời cầm bút ở chúng tôi,
từ ngày cùng Ls Trần Chánh Thành còn thật gần gũi ô.Ngô Đình Nhu ở tờ Tạp
chí "Xã Hội", chuẩn bị ngày về nước chấp chính của nhà chí sĩ Ngô Đình
Diệm, qua hai thời Đệ Nhất Đệ Nhị Cộng Hòa, thật tình, chúng tôi chưa hề
viết về "nhân vật" Bùi Diễm lấy một dòng. Nhưng bây giờ, chúng tôi đang
viết về ông đây, thưa tác giả Bùi Diễm. Hoàn toàn không có vấn đề "cá
nhân". Vì, đối với người cầm bút, không có gì tầm thường, đáng khinh bỉ
cho bằng dệt ra những điều không có thực, hoặc vì yêu hay ghét. Mà cái yêu
ghét ấy lại không chỉ vô hại, dễ thương như cái ông nhà văn Samuel Johnson
mê thủ đô Luân Đôn quá sức thì nhất định bảo "When a man is tired of
London, he is tired of life." Và, lại như một nhà báo Pháp ở tờ Le Monde
Littéraire thì phản pháo lại: Lorsqu’un homme est lassé de Paris, il est
lassé de la vie!
Nhưng về mặt "tư tưởng" thì
đành phải... rứt khoát. Có điều, không phải vì thế mà nặng lời - những lời
phàm tục!
Để cho thật công bằng, chúng
tôi xin dành đoạn "tạm kết thúc" này để ghi nhận rằng, buổi Ra Mắt tác
phẩm Gọng Kìm Lịch Sử ở Paris đạt kết quả khá tốt đẹp (1). Thành phần tham
dự đông đảo và gồm nhiều vị thính giả tên tuổi của hai nền Đệ Nhất Đệ Nhị
Cộng Hòa, Miền Nam. Khung cảnh hòa nhã, đúng là giới người Việt Ba Lê Văn
hóa, Văn minh. Phòng họp thêm phần sinh động do sự sốt sắng của hai nữ
lưu: Bà Bs Nha khoa Khánh Vân phụ trách phần giới thiệu chương trình và bà
cựu đại sứ Vương Văn Bắc cầm máy quay phim nhỏ thu vào ống kính quang cảnh
buổi nói chuyện. Cả hai bà đều nhã nhặn, vui tươi trong trang nghiêm. Và
với những ai đã từng biết chuyện từ trước - chuyện Đs Bùi Diễm được dư
luận Saigon ngày xa xưa phong tặng nhiều "biệt danh" - thì đều phải nhìn
nhận thêm sự tế nhị đã có ở bà V.V.B. Vì, vào một lúc, có lẽ, để ngầm biểu
lộ nỗi u uất ấy, diễn giả Bùi Diễm quay sang tìm hỏi, xin ý kiến nơi bà
V.V.B. Rất xứng đáng ở địa vị nội tướng một nhà ngoại giao VNCH, bà Vương
Văn Bắc chỉ thoáng... nhẹ cười, thay cho phải cất tiếng, như để biểu lộ sự
cảm thông giùm diễn giả, và như muốn lôi kéo cử tọa cùng thông cảm cho
ông...
Mạc Kinh
(Luân Đôn, ngày 5.4.2001)
Chú thích:
(1) Chỉ có
điều đáng tiếc, ngọn Quốc Kỳ nền Vàng 3 sọc đỏ - biểu tượng thiêng liêng
của hai triệu người Việt lưu vong, mà chỉ vừa mới đây thôi, được Người Mỹ
mời hiện diện tung bay hùng vĩ giữa đại lộ huy hoàng nhất Tiểu bang Nữu
Ước, lại không có chỗ ngự trị xứng đáng trong hội trường "Ra Mắt Sách -
Nói Chuyện" của vị cựu đại sứ VNCH từng sát cánh với Th.Tướng Kỳ, TT Thiệu
cho đến ngày nước mất nhà tan.
Vào giờ giải đáp các điều
thắc mắc của cử tọa, một thính giả - Trung tá Phạm Văn Đức, cựu
SVSQVB/Đàlạt đã đứng ra nghiêm khắc phê bình, dù thái độ và lời lẽ ở ông
không để thiếu đi phần nhã nhặn.
Ban Tổ Chức "Hội Y Giới
Việt Nam Tự Do tại Pháp" đưa mắt về phía diễn giả Bùi Diễm và thuyết trình
viên Đỗ Văn, người giới thiệu tác phẩm "Gọng Kìm Lịch Sử", chờ đợi câu trả
lời thay.
Tới lúc ấy, sau một vài
giây lúng túng, hai ông chỉ tay về lá cờ Việt Nam Quốc gia thật nhỏ đặt
nơi bàn chủ tọa đoàn, như người ta thường thấy người Anh người Mỹ hay giắt
cái cờ cỏn con nước họ trên vành mũ...
|