|
THÁNG TƯ KINH HOÀNG
Phạm Thị Quang Ninh
(trích trong Hồi Ký Cùng Nhau Trôi Nổi)
...Trong giai đoạn này, tình
hình Việt Nam trở nên rối rắm. Đầu năm 1975 anh Ruyệt nói có tin miền Nam
có thể bị chia làm hai. Miền Cao nguyên phải dành cho Việt Cộng. Tới mồng
10 tháng 3, chúng ta mất Ban Mê Thuột. Ngày 15 tháng 3, tổng thống Thiệu
ra lệnh rút quân khỏi Cao nguyên. Cuộc rút quân thê thảm đã đi qua Phú
Bổn, nơi có lần tôi đã ở ba tháng khi anh Ruyệt bắt đầu nhận việc. Thế rồi
ngày 19 tháng 3 Cộng sản ngang nhiên đưa xe tăng từ miền Bắc vào chiếm
Quảng Trị. Tiếp đến là ngày 23 tháng 3 Huế cũng bị mất và Đà Nẵng bị đe
dọa. Anh Ruyệt lúc này luôn vắng nhà. Lực Lượng Dân Tộc Việt (LLDTV) đã cử
anh Châu Sơn Nguyễn Văn Thuận và anh Nguyễn Liệu trách nhiệm tỗ chức dân
chúng chống lại việc chia đất cho Việt cộng. Lúc đó Đà Nẵng đang bị đe
dọa, anh Ruyệt theo phái đoàn LLDTV tới hoạt động ở vùng đông tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo. Khi Tổng thống Thiệu sắp từ chức, nhà tôi cho biết LLDTV
quyết định tổ chức một chính phủ kháng chiến, mời ông Trần
Văn Tuyên làm Thủ tướng và ông Nguyễn Cao Kỳ làm Tổng tư lệnh. Lực lượng
dự định lấy vùng Hậu giang làm hậu cứ, vì Hậu giang là cứ sở của Phật Giáo
Hòa Hảo, có những tướng giỏi như tướng Nguyễn Khoa Nam.
Khi được tin ông Thái Lăng
Nghiêm bị tổng thống Thiệu ra lệnh bắt, anh Ruyệt vì có liên hệ, lại càng
hay vắng nhà hơn. Sau anh cho biết chính phủ kháng chiến không thành hình
vì Phật giáo lúc ấy quá tin vào chính phủ Hòa hợp hòa giải sẽ ra đời nên
không ủng hộ. Thêm vào đó các ông Trần Văn Tuyên và Nguyễn Cao Kỳ không
nhận lời.( bỏ một đoạn) Khoảng một tháng sau, chính phủ ra lệnh thiết quân
luật nên tôi không đi thăm cha mẹ được nữa. Anh Ruyệt có giấy phép đi
trong giờ giới nghiêm nên có thể đi ra ngoài. Tôi đành ngồi nhà nghe tin
tức qua đài phát thanh. Anh Ruyệt về nhà có vẻ bực dọc. Quen với tính anh
rồi, khi không vui tôi sợ chàng nổi nóng. Nhưng lần này tôi không nhịn
được nữa mới hỏi:
_ Bết quá rồi anh hả?
Anh trả lời:
_ Vừa nói chuyện với Lý Quí Chung xong. Hắn nói đánh mà không biết ra sao.
Thật sự trong giờ phút đó
chẳng ai biết ra sao, nếu có tại sao có nhiều người đã ra đi, trong khi có
nhiều nhân vật cao cấp còn kẹt lại. Anh Ruyệt được cơ quan DAO cho di tản
ba người, anh dẫn Lạc Long và Phong Châu đi. Khi chia tay chồng con, lòng
tôi
đứt đoạn, nước mắt trào ra như không còn giữ lâu hơn nữa. Biết chồng chẳng
có một đô la nào trong túi, tôi rút chiếc nhẫn cưới đưa anh, phòng khi
hoạn nạn có tiền nuôi con. Khi đến phi trường, anh thương nhớ vợ con nên
đổi ý trở về. Chiều ngày 28 tháng tư, anh Ruyệt và anh Lý Đại Nguyên chở
nhau vào Tân Sơn Nhất gặp ông Nguyễn Cao Kỳ để thăm hỏi tình hình. Khi các
anh ra khỏi cửa thì phi trường bị ném bom. Tình hình lúc bấy giờ thật căng
thẳng, tôi bồn chồn không biết làm gì và sửa soạn cái gì. Đã mấy hôm tôi
không đi chợ vì thiết quân luật, thức ăn đã gần cạn nên cả nhà chỉ ăn uống
dè xẻn những thức ăn dự trữ mấy ngày hôm trước. Cũng may còn một tạ gạo và
mấy chai nước mắm nên chắc gia đình tôi không đến nỗi bị đói.
Tôi mở máy truyền thanh và
truyền hình liên tục cả ngày. Bỗng trên tuyền tôi thấy chỉ có nghệ sĩ Trần
Văn Trạch đọc bản tin, còn các xướng ngôn viên khác không thấy đâu nữa.
Linh tính cho tôi thấy tình hình miền Nam chẳng còn hy vọng gì. Mà quả
vậy, sự sụp đổ quá lẹ làng làm quân đội hỗn loạn, dân chúng bàng hoàng.
Gia đình tôi cũng vậy. Mấy ngày sau cùng của miền Nam, Việt Cộng phóng hỏa
tiễn liên miên vào Sàigon và vùng phụ cận. Sáng nào cũng có tin người chết
vì trúng đạn Việt cộng.
Vào ngày 29 tháng 4, hai vợ chồng tôi và bẩy đứa con sống trong tình trạng
kinh hãi tột độ. Ban ngày tôi đốt tài liệu mà không biết là có nhiều người
nằm vùng theo dõi. Ban đêm cả nhà chui xuống gầm giường nằm để tránh pháo
kích. Thật ra, nếu may mắn thì cũng chỉ tránh được mảnh đạn văng tới thôi
chứ thoát chết sao được khi đạn pháo trúng nhà mình. Chín mạng người ôm
cứng lấy nhau như một khối mà tôi vẫn lạnh run cầm cập. Sau một đêm như
vậy, thấy ánh nắng mặt trời, vợ chồng con cái nhìn nhau mừng rỡ vì vẫn còn
nguyên vẹn. Rạng ngày 30 tháng 4, tin tức loan truyền Việt cộng đã vào sát
thành phố. Chúng tôi cuống cuồng tìm đường rời bỏ Việt Nam.
Trong lúc cuống quýt tôi không còn biết chọn lựa mang theo cái gì. Nhà tôi
có rất nhiều sách vở như cái thư viện. Anh Ruyệt quí sách vô cùng nhất là
mấy cuốn về Duy Dân. Anh vơ mấy cuốn sách đó bỏ vào một cái túi. Tôi ôm
nắm quấn áo bỏ vào một
cái túi khác, rồi bình thủy nước sôi và mấy hộp sữa cho con. Thấy mấy cuốn
album để gần đó, tôi xé ra một số hình nhưng mới được có một ít thì nhà
tôi dục ra xe nên tôi đành phải bỏ lại.
Anh Ruyệt biết anh Đinh Trịnh
Chính có chiếc thuyền đánh cá để ở sông Sàigon vì khi mua hai anh đi cùng
với nhau. Anh Chính còn mua một chiếc tàu lớn nữa, dự trù cho nhóm báo
Sóng Thần và chiến hữu, nếu mỗi người góp hai trăm ngàn VN. Nhưng mấy
người làm báo tiền không đủ ăn, làm sao có tiền để vượt biển, dù số tiền
này chỉ tượng trưng thôi chứ thấm thía gì với giá chiếc tàu 60 triệu bạc
(tiền VN).
Chồng tôi chở hết vợ con trên
chiếc xe La Dalat tới nhà anh Chính. Đi xe hơi cũng rất nguy hiểm trong
lúc đó nhưng là phương tiện duy nhất để chuyên chở được cả nhà. Thật ra,
chúng tôi chỉ cầu may chứ không hy vọng anh Chính còn kẹt lại. Cũng may
khi tới, anh Chính vẫn còn ở nhà. Nhà tôi hỏi anh Chính cho gia đình tôi
xuống thuyền và thú thật trong túi chỉ còn có vài chục ngàn bạc VN. Anh
Chính la lên:
_ Giờ này còn tiền bạc gì
nữa. Thuyền vẫn ở chỗ cũ. Chú mà ra chậm, tôi không đợi đâu.
Anh Ruyệt đã biết chỗ thuyền
đậu nên trực chỉ tới bến tàu. Ngồi trên xe, tôi đưa mắt nhìn quanh. Cảnh
tượngï hoang tàn, chiến binh thất thểu trên hè phố, đồ trận đã cởi ra, chỉ
còn độc quần đùi và áo thung. Thật là khó tin. Quân đội miền Nam là một
đoàn quân thiện chiến, đầy can đảm. Một quân đội đã chiến đấu vì lý tưởng
quốc gia chân chính. Một quân đội mang lại nhiều chiến thắng chống xâm
lăng lẫy lừng, đem lại yên
ấm của toàn dân. Thế mà sao đoàn quân tinh nhuệ này lại tan rã nhanh chóng
như thế? Ai có trách nhiệm làm sụp đổ quân đội hùng mạnh này? Tôi khổ tâm
nhìn những chiến sĩ anh hùng bị các vị chỉ huy cao cấp bỏ rơi dù lòng tôi
cũng đang tan tác trên đườøng chạy giặc. Chắc những người chiến sĩ miền
Nam này không có bà con xa gần ở Saigon. Nghĩ đến em tôi, Chiểu, tôi không
gặp cậu ấy khi đến thăm cha mẹ lần cuối cùng. Chắc Chiểu cũng đang lê lết
ở một thành phố xa xôi nào đó. Chúng tôi đi ngang nhiều chỗ quân đội Cộng
hòa còn canh giữ. Anh Ruyệt có giấy phép đi trong giờ giới nghiêm nên qua
được các trạm gác. Mặc dù trong tình trạng khẩn cấp, nhà tôi vẫn
không quên bạn. Anh dừng lại kiếm điện thoại công cộng, gọi các anh Lý Đại
Nguyên và Uyên Thao. Gặp được anh Nguyên ở trụ sở Vovinam nhưng anh Ruyệt
không thể tới đón nên nhờ anh Trần Huy Phong chở anh Nguyên. Cuối cùng,
anh Phong cũng không đưa anh Nguyên ra sông Saigon được, anh Ruyệt đành
phải đi thẳng tới bến tàu.
Cầu Tân Thuận đã bị rào kẽm gai đóng lại và vẫn có lính gác. Nhà tôi đưa
giấy xin qua cầu và tìm thấy thuyền ngay sau đó. Chúng tôi bước lên
thuyền, bên tai văng vẳng tiếng súng. Chắc các anh lính Cộng hòa không cản
nổi làn sóng người chạy giặc nên nổ súng chỉ thiên hay vì kho gạo Khánh
Hội đang bị dân chúng phá lấy gạo. Anh Chính và bốn cháu đi xe gắn máy nên
đến sau. Vì anh Chính không mang giấy tờ nên không qua cầu được bèn sai
con bơi sang lấy thuyền. Trong khi ấy chẳng may cái bình
thủy nước xôi của con bị bể, anh Ruyệt nhảy lên bờ, đi tìm mua cái khác.
Khi gia đình anh Chính xuống
thuyền, hàng trăm người cùng nhào xuống. Con thuyền bé nhỏ như không chịu
đựng được khối trọng tải của nhóm người nên tròng trành, ì ạch muốn chìm.
Anh Ruyệt vẫn ở bên bờ bên kia, tìm mua bình sữa cho con và đi gửi xe cho
người anh họ ở cư xá Ngân hàng nên không xuống kịp khi thuyền nhổ neo. Anh
Chính bảo tôi:
_ Nếu chú ấy mà không tới
kịp, tôi không đợi đâu, tôi mang cô và mấy đứa nhỏ đi luôn.
Tôi lo lắng. Nếu chồng tôi
kẹt lại thì tôi đi làm gì. Nhưng may sao khi thuyền ra khỏi bờ thì anh
Ruyệt tới. Anh gọi anh Chính và trả tiền cho một chiếc ghe nhỏ để họ chở
tới thuyền. Vì thuyền chở quá nhiều người nên đi xa không được, cứ loanh
quanh mãi ở vùng sông Sàigon. Tuy đã ngồi trên thuyền và dự định ra khơi
nhưng tôi vẫn có cảm giác là mình chỉ đi lánh nạn ít lâu thôi. Nhưng khi
nghe đài phát thanh loan tin tổûng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng, nước
mắt tôi dàn dụa. Thôi thế là vĩnh biệt Sàigon, vĩnh biệt người thân, vĩnh
biệt khung trời kỷ niệm của những ngày yêu dấu tuổi học trò... để đi đến
một phương trời xa lạ mà mình chưa bao giờ biết đến. Không dự trù đi xa,
thuyền chỉ trang bị vài ba ngày lương thực, nước uống và dầu nhớt. Nhưng
với hàng trăm hành khách, số dự trù này chắc chắn chỉ được một ngày. Trọng
tải quá sức nên chiếc thuyền di chuyện chậm chạp như sắp chìm. Co thuyền
đang lết như thế thì chúng tôi bị Việt cộng pháo kích. Tàu Việt Nam Thương
Tín bị trúng đạn và nhiều người nói nhà văn Chu Tử là người duy nhất bị tử
thương vì viên đạn đó.
Ra khỏi Vũng Tàu, mọi người
chỉ còn hy vọng được hạm đội thứ 7 của Mỹ vớt. Nhưng chẳng thấy hạm đội
đâu, anh Chính thấy tình trạng vô cùng nguy ngập nên bàn với anh Ruyệt:
_ Chú ra nói với họ đi, không
ai chịu lên bờ là chết hết. Thuyền sắp chìm rồi.
Anh Ruyệt bèn cho thuyền đậu
cạnh một thuyền đánh cá khác rồi ra trước mui thuyền thông báo tình trạng
khẩn trương. Anh nói thuyền đi một lúc nữa, sóng to sẽ chìm. Gia đình anh
và gia đình anh Chính có chết vẫn đi. Ai có nhiều tiền, ai muốn sống thì
điều đình với thuyền bên cạnh đi về, hoặc kiếm thuyền an toàn khác mà đi.
Nhiều người cũng nhận thấy sự nguy hiểm nên lục đục kéo sang thuyền bên
cạnh. Cuối cùng thuyền còn lại ba mươi hai người nên di chuyển bớt nặng nề
hơn. Tất cả hành khách ra
khơi hầu hết là gia đình các quân nhân cấp úy, cấp tá trừ gia đình anh
Đinh Trịnh Chính và gia đình tôi.
Chúng tôi đã thấy hạm đội thứ
7 đèn sáng choang ở đàng xa. Trong lòng đầy hy vọng, tài công cứ nhắm đó
mà đi tới. Thấy có một chiếc thuyền khác đi song song ra đèn hiệu, thuyền
chúng tôi đáp lễ, ngỡ rằng tàu Mỹ tới hướng dẫn mình. Mãi đến khi đi sát
vào nhau mới biết cả hai đều là thuyền tị nạn. Tới qúa nửa đêm thuyền
chúng tôi tới được gần hạm đội 7. Thủy thủ Mỹ bảo đợi đến sáng sẽ vớt. Mọi
người mừng rỡ, cho
rằng đã thoát hiểm. Vì mỏi mệt cả ngày và cũng vì yên tâm nên hành khách
dựa vào nhau ngủ ngon lành. Sáng tỉnh dậy chẳng còn ai thấy hạm đội đâu
nữa. Chung quanh
chỉ thấy hai chiếc thuyền, một cái chứa đầy quân nhân và chiếc kia có các
linh mục và giáo dân. Anh Chính ra lệnh đậu thuyền lại để chờ, không biết
chờ cái gì. Đến chiều, có nhiều thuyền trong bờ kéo ra. Anh Chính bảo tài
công chạy theo họ. Được một lúc quả có một tàu Mỹ ở xa xa. Tàu này thấy
thuyền tị nạn thì nhổ neo bỏ chạy. Một số thuyền tiếp tục đuổi theo, một
số dừng lại trong số đó có thuyền của chúng tôi. Anh Chính điều đình mua
dầu nhớt, thực phẩm, nước uống của những chiếc thuyền quay trở về rồi tiếp
tục cho thuyền chạy về hướng Thái Lan. Thuyền chạy được một lúc nữa, một
hiện tượng làm mọi người trố mắt. Mấy chiếc thuyền mà chúng tôi đã thấy
lúc trước đang nổ máy chạy vòng vòng mà chẳng còn người nào cả. Họ đã được
hạm đội Mỹ vớt rồi. Đến nước đó chẳng còn sự lựa chọn nào ngoài chuyện cứ
đi, tới đâu thì
tới. Anh Chính và anh Ruyệt nhẩy sang mấy chiếc thuyền trống, lấy thêm
lương thực và dầu nhớt. Và cũng lấy thêm hai chiếc thuyền nữa để chứa thực
phẩm và chia người cho đỡ nặng. Lúc đó chúng tôi có ba chiếc thuyền. Chiếc
thuyền của anh Chính là cái số một có gia đình anh Chính và mẹ con tôi.
Một số gia đình khác chuyển qua cái thứ hai. Anh Ruyệt và mấy người nưã lo
cái thứ ba. Nhưng chạy được một lúc thì chiếc này hư máy nên anh Ruyệt
phải chuyển qua cái thứ hai. Như vậy là chỉ còn lại hai chếc. Thuyền anh
Chính và thuyền anh Ruyệt thỉnh thoảng lại sáp vào nhau để bàn tính và để
anh Ruyệt săn sóc vợ con. Sau khi bị vớt hụt, chúng tôi chỉ còn hy vọng
được các tàu của các quốc gia khác cứu theo như luật hàng hải. Tôi và các
con chưa bao giờ đi biển nên đã bắt đầu ói mửa. Với tôi, nhiều lần trong
đời đã ói nhưng chưa bao giờ khủng khiếp như vậy. Tôi bò lê bò càng, không
ngồi được nữa chứ nói gì đến đứng dậy.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi
trăn trối với nhà tôi:
_ Chắc em chết quá, anh săn
sóc các con nghe anh.
Chồng tôi hét lên:
_ Đừng có nói nhảm.
Thấy chỗ lái tàu, dưới chân
anh Chính có một chỗ có thể nằm co được, tôi bò tới rồi gục xuống. Anh
Chính thấy thế hoảng hốt gọi anh Ruyệt:
_ Mang cô ấy ra chỗ khác đi,
nằm chỗ này một lúc nữa là cô ấy chết đó.
Trong tàu thì làm gì có chỗ
nằm, anh Ruyệt bèn kéo tôi lên mui thuyền. Tôi nằm đó đến khi tỉnh dậy
thấy có ly sữa trong tay. Tôi giữ cái ly mà không đưa vào miệng được. Conø
đương lừng chừng, anh Chính thò tay qua cửa sổ buồng lái, cầm ly sữa hớp
một ngụm rồi trả vào tay tôi. Tôi vồ lấy uống một hơi không còn một giọt.
Thấy tôi uống hết ly sữa, anh Ruyệt nói:
_ Tốt. Thế là sống rồi.
Nói xong anh xuống săn sóc
các con. Khi tôi đã tỉnh, nhà tôi mang cả gia đình sang chiếc thuyền thứ
hai nên tôi có một chỗ nằm gần các con. Vào ngày thứ ba, thấy có cái gì đè
nặng, tôi mở mắt ra, cu Quốc đã trèo lên mình. Bàn tay bé nhỏ lần vào vú
mẹ, tay kia bỏ vào miệng mút chùn chụt. Tôi biết con tôi thèm sửa vì mấy
ngày bé phải ăn thức ăn như người lớn. Bên cạnh, Phong Châu cũng gối đầu
lên tay mẹ mút ngón tay. Hai đứa bé này chưa bỏ sữa khi còn ở nhà. Chung
quanh, mấy đứa lớn nằm như bất động. Tôi muốn nói với các con vài câu an
ủi nhưng sức đã kiệt, lời nói không ra được khỏi miệng. Tôi nhìn chúng cố
mỉm cười. Lạc Long nhìn tôi thì thào:
_ Mẹ ơi đừng khóc.
Thật là nụ cười của kẻ khốn
cùng cũng chẳng khác gì khi mếu máo đau thương.
Vào ngày thứ tư, một tàu hàng Nhật đi ngang. Đàn ông cởi áo thung trắng ra
viết S.O.S! S.O.S! rồi vẫy rối rít. Nhưng chiếc tầu nhẫn tâm đi qua, không
cứu vớt. Cùng ngày, chiếc thuyền thứ hai hỏng máy. Có thể khi bỏ lại trên
biển, chủ nhân của nó đã phá hủy nên không dùng được lâu. Sóng bắt đầu
lớn, nước đã bắt đầu tràn vào khoang tàu. Tôi có cảm tưởng thuyền sắp
chìm. Tất cả đàn ông thay nhau múc nước ngày đêm không nghỉ. Nguy hiểm hơn
nữa, chiếc thuyền nhỏ bé của anh Chính không có đèn, phải kéo cái thuyền
hư hỏng này vì bên trong chứa lương thực, nên ban đêm phải neo lại đợi
sáng. Thuyền đã chạy năm, sáu ngày mà vẫn chưa thấy bến, thấy bơ.ø Chung
quanh toàn là nước biển. Sóng thật lớn. Thuyền nhấp nhô, mỗi lần thụp
xuống như mất hút dưới đáy biển, rồi lại trồi lên. Tôi chẳng có ý niệm nào
trong đầu là bao nhiêu ngày nữa tới Thái Lan. Có một điều chắc chắn là
chúng tôi khó có thể sống sót qua
một cơn bão dữ. Nhìn chung quanh, chồng tôi đang đứng như một pho tượng,
nhìn ra
biển cả. Không biết anh đang nghĩ gì? Bất chợt anh quay sang vợ con. Buồn
rầu anh bước lại gần tôi, ngồi xuống bên cạnh, xoa đầu từng đứa con. Sau
một lucù anh nói:
_ Anh không sống với Cộng sản
được. Họ sẽ giết anh. Anh phải đi. Anh nghĩ mình sống chết có nhau nên anh
đã mang mẹ con em vào chỗ chết này. Bây giờ anh hối hận lắm. Tình trạng
này, chúng ta khó mà sống được.
Anh im lặng một lúc rồi ngập
ngừng:
_ Anh không muốn em và các
con phải chết như thế này. Mình đang ở hải phận quốc tế, có mấy thuyền
đánh cá người Việt còn đây, anh sẽ thuê họ đưa mẹ con em về Saigon. Anh
phải đi.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi
xuống tàu chúng tôi nói chuyện dài như vậy. Tôi đưa cặp mắt thất thần nhìn
anh rồi nhìn con, lòng đau như cắt. Những đứa trẻ này có tội tình gì mà
bắt chúng chết với mình. Tôi đã quyết định. Cắn mạnh vào môi như rướm máu,
tôi gật đầu.
Anh Ruyệt ra bàn với anh
Chính thì bị phản ứng mạnh. Anh Chính hét lên:
_ Ngu xuẩn! Con cô chú chết
bộ con tôi không chết sao? Bộ mọi người không chết sao? Tên đã bắn. Đi!
Đi!
Thấy anh Chính cương quyết
như thế nên chúng tôi đổi ý tiếp tục ra đi. Cũng nhờ anh Đinh Trịnh Chính
mà gia đình chúng tôi mới được đoàn tụ trên đất Mỹ.
Tới ngày thứ mười, trời u ám
báo hiệu một cơn bão sắp tới. Như một phép lạ, có mấy tàu đánh cá Thái Lan
tới gần. Anh Chính trước làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Thái Lan nên nói
được tiếng Thái. Anh nhờ họ giúp đỡ. Mấy ngư phủ này nói họ sẽ trở lại sau
khi đánh cá xong vì là nghề sinh sống của họ. Đã bị hạm đội thứ 7 bỏ rơi
nên chúng tôi đều mất tin tưởng, không hy vọng những người đánh cá này sẽ
trở lại. Trong lòng ai nấy đều nghĩ đêm hôm đó là đêm cuối cùng. Nhưng
thật ngạc nhiên, mấy ngư phủ Thái đã trở lại như đã hứa. Chúng tôi cho họ
chiếc thuyền hỏng máy và di chuyển sang thuyền của họ. Tàu anh Chính được
họ kéo theo sau. May mắn thay, mọi người vừa sang được thuyền đánh cá Thái
Lan để vào bờ biển Song La thì bão tố nổi lên. Nếu không được vớt kịp,
chắc chắn không còn ai sống sót. Khi vào đất liền, chúng tôi không còn gì
ngoài bộ quần áo bẩn thỉu đang mặc đầy nước biển. Vài ngày sau đó, vợ ông
trung tá không quân hạ sinh một bé gái kháu khỉnh đặt lên là Song La.
Phạm Thị Quang Ninh
(Trích trong Hồi Ký Cùng Nhau
Trôi Nổi)
|