Đại Chúng số 74 - phát hành ngày 1/6/2001

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới

HƯƠNG SẮC QUÊ MÌNH

Lãng Nhân

(tiếp theo kỳ trước)

BÀ THỦ KHOA NGHĨA

Khoảng 1820, ông Nguyễn Văn Lý làm hộ trưởng ở tỉnh Biên Hòa, nhà cửa thênh thang làm ăn sung túc. Một hôm, một thanh niên đến xin ở trọ để tiện theo học trường thày đồ Hoành gần đó. Thấy vẻ người tuấn tú, ăn nói lễ độ, ông niềm nở mời ngồi. Hỏi lai lịch thì biết là Bùi Hữu Nghĩa, quê làng Long Tuyền, tổng Bình Thủy, Cần Thơ, cha làm thuyền chài đã gắng cho theo đòi bút nghiên, ngặt vì quá nghèo nên định bỏ học thì may có ông người làng họ Ngô mến tính hiếu học giúp tiền lương cho lên Biên Hòa thụ giáo thày Hoành là nhà mô phạm nức tiếng. Ông hộ trưởng vui vẻ dành ngay một phòng cho người thư sinh dễ. thương, ngầm có ý chấm làm khách đông sàng vì ái nữ là cô Tốn tóc đã chấm ngang vai.

Từ đấy, Bùi được yên chốn thong dong, cơm dẻo canh ngọt, nên đèn sách chuyên cần, chẳng bao lâu nổi tiếng văn hay chữ tốt.

Năm 29 tuổi (1835, Minh Mạng 16) thi hương trường Gia Định, đỗ thủ khoa, nên thiên hạ thường gọi là Thủ khoa Nghĩa. Đến khoa thi Hội, ông ra Huế thi nhưng không đậu.

Song cũng được bổ vào tập sự ở bộ Lễ, chờ ngày lãnh chức vụ chánh thức. Chỉ ít lâu sau, ông được bồ nhiệm tri phủ phủ Phước Long, Biên Hòa.

Trên đường phó quan, ghé chào thày Hoành xong ông vội vã lên võng để phu cáng về lối Phước Long, cáng nhà nhấc lên để ra đi bỗng thấy cô Tốn bước đến cản lại dịu dàng nói:

_ Dám bẩm quan lớn, ngài tài cao học rộng xin làm ơn coi dùm tấm giấy này và giảng giải cho...

Ông thủ khoa giật mình vội vã xuống võng tiếp mảnh giấy nhỏ, thấy (1) thì đỏ bừng mặt, chắp tay khẩn khoản:

_ Vì phải tới phủ cho kịp giờ ấn định nên chưa đến được đằng nhà để tạ ơn, xin thư cho ít bữa, chứ tôi đâu có quên...

Rồi ông lật đật lên võng và trong khi phu cáng lần bước lên đường ông thủ khoa thở dài, nghĩ bụng: quên sao được mà quên! Cái mảnh giấy này, trong khi dùi mài đèn sách, mình dã dúi cho cô nàng, tưởng chữ viết dọc ngang thế chắc gì đã đọc được. Ai dè cô đã lần ra mối:

Đọc dọc từ trên xuống dưới:

Đây lại gửi thơ đặng em hay

từ dưới lên giữa rồi quặt sang phải:

Hay em đặng thơ bỏ Nghĩa này

từ phải sang trái:

Này Nghĩa bỏ thơ chang nhớ thiếp

từ trái đến giữa ngoặt lên trên:

Thiếp nhớ chàng thơ gửi lại đây

Và rồi: thơ chẳng gửi lại, mà chính thiếp đã tới trả lời khiến thiếp với chàng "nể lòng khôn lẽ cầm lòng"... thì giờ đây chàng nỡ phụ lòng cho đang.

Quả nhiên khi nhận việc xong, ông đón cha cùng đi tới nhà ông hộ trưởng để cầu hôn. Lẽ tất nhiên ông hộ trưởng hồ hởi như cởi tấm lòng và sau tiệc cưới linh đình, vợ chồng ông phủ “võng ông đi trước võng bà theo sau” vinh hoa bõ lúc phong trần...

Ở Biên Hòa một thời gian, ông phủ Nghĩa được thăng đi trấn nhậm phủ Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long, tòng sự dưới quyền tồng đốc Trương Văn Uyển và bố chánh Truyện.

Tính cương trực, ông không chịu luồn cúi và cũng không tư vị một người nào. Bấy giờ em vợ bố chánh Truyện hay có thái độ hỗn xược, ông chẳng nể nang gì một hôm cho đánh 5 roi, lại đánh thêm 5 roi nữa gửi về phạt phụ huynh vì không biết dạy con em. Do đó bố chánh đem lòng thù, tìm dịp hãm hại. Trước kia, Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đuổi, lương thực thiếu hụt, ở Trà Vang người Thổ quyên giúp rất nhiều, thêm một số lớn tình nguyện tòng quân, nên khi tức vị vua nhớ ơn, xuống chiếu miễn thuế thủy lợi rạch Lang Thé cho dân Thổ. Thấy thủy lợi đó quan trọng, một người Tàu lo lót với tổng đốc Uyển và bố chánh Truyện giành lấy độc quyền và đắp đập để khai thác. Các hương mục Thổ kéo nhau đến kiện ở dinh tri phủ Bùi Hữu Nghĩa; tri phủ xử ràng:

“Việc tha thuế thủy lợi là ơn riêng của vua Thế Tổ ban cho dân Thổ, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà đứng bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng không sao!”

Dân Thổ được lời xử ấy bèn phá đập của người Tàu. Giữa hai bên xảy ra huyết chiến, phía Trung Hoa chết mất tám người.

Nhiều dân Thổ bị bắt khai ra lời xử của Bùi. Tổng đốc và bố chánh Vĩnh Long bắt luôn ông giải về Gia Định rồi đệ sớ lên triều đình, buộc vào tử tội: xúi giết người và làm loạn.

Đứng trước nỗi oan tình, bà thủ khoa Nghĩa quyết lặn lội ra Huế minh oan cho chồng.

Bấy giờ, Phan Thanh Giản đang làm thượng thư bộ Lại. Bà thủ khoa tìm đến tư dinh Phan để trình bày sự lộng quyền của các quan tỉnh Vĩnh Long, rồi đến Tam pháp ty khua ba hồi trống “kích cổ đăng văn”. Tam pháp ty gồm có nhân viên cao cấp của bộ Hình, Đô sát viện và Đại lý, dân gian gọi là “Ba toà quan lớn” tự họp xử không định kỳ, chỉ có những phiên nhóm bất thường để xét các vụ đặc biệt, mỗi vụ họp theo tiếng trống của người bị oan khuất tự đến dóng lên.

Bà thủ khoa vừa rung trống thì một thày đội chạy đến thâu tờ trạng đem vào trình viên quan chực. Ông này giao lại Tam pháp ty nghị án rồi chính vua chung thẩm như sau:

“Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội.”

Bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, nghe tin này lấy làm cảm thương cho người liệt phụ đồng hương, bèn cho vời vào ban một tấm biển trạm bốn chữ vàng: “Liệt phụ khả gia”.

Cứu được chồng, bà thủ khoa từ giã kinh đô, thẳng đường về Biên Hòa ít lâu sau thọ bệnh rồi mất tại làng Tân Hiệp, tổng Chánh mỹ thượng.

Khi bà mất, thủ khoa Nghĩa đang trấn nhậm ở Châu Đốc Hay tin vội về nhưng tới nhà thì việc tống táng đã xong, ông sụt sùi đọc bài văn tế có những câu thống thiết như sau:

Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biện bạch này oan nọ ức; đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng.

Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bằng đảng tai nghe đều mất vía.

Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải như vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa thông làm thói dể duôi

Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng phải như vợ Tô Tần thuởxưa, vận chưa đạt đem lòng khinh bạc...

Ăn cần ở kiệm, giầu không khoe, khó cũng không đua - Mua nghĩa, chác nhân, trước chẳng phai, sau cũng chẳng lạt.

Ôi! Sông Lệ vàng chìm - Non Côn ngọc nát.

Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau, giầu cũng có nhau - Quỉ vô thường gây cuộc bể dâu, vật tráo chác, người sao tráo chác.

Con sáu tuổi thơ ngây một bóng, em sao đành nhắm mắt qui tiên - Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu sao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.

Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã khiến ức oan - Ai mượn ngươi quỉ bá đưa đàng, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.

Chữ dại đức tất đắc kỳ thọ, đọc tới phát buồn – Câu tích phước tắc hữu dư khương, nghe càng thêm chát.

Qua đề bậu chẳng bằng tiên đũa, phận phấn gương chẳng kịp nửa giờ - Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.

Đêm khuya hãy nưng niu một trẻ, nghĩ từ cơn ruột tựa kim châm - Ngày dài thêm vắng vẻ không em, nhớ từ chặng, gan dường muôí xát.

Cuộc long hổ lấp rồi ba thước đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan - Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc...

Đôi liễn thờ vợ ông viết như sau:

“Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ.”

“Khanh bệnh, ngã bất dược, khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.”

(Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là đáng vợ;

Mình bệnh, ta không thuốc thang; mình chết ta không mai táng; non sông cùng cười ta chẳng xứng gọi là chồng.)

Vợ mất ba năm, ông mới lại có dịp về thăm nhà, nhân làm bài thơ:

Khóc vợ:

Đã chẵn ba năm mới đặng thăm,
Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm.
Gió nào đưa thấy hình dương liễu,
Đêm quạnh ai hoài tiếng sắt cầm.
Chồng nhớ vợ, lòng tơ bối rối,
Con thương mẹ, lụy ngọc tuôn dầm.
Có linh chín suối đừng sao lãng,
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.

Được ít lâu ông chán nản việc đời, xin từ quan, trở về quê quán tại Bình Thủy, làm thuốc và dạy học, vui thú điền viên, thường ngày uống rượu ngâm thơ với bạn là cử nhân Phan Văn Trị.

Ngày 21 tháng giêng Nhâm Thân (1872) ông từ trần, thọ 65 tuổi.

 NỮ SĨ SƯƠNG NGUYỆT ANH

Khoảng 1850, ông Nguyễn Đình Chiểu làm thày lang ở Tân Thuận đông, tỉnh Gia Định, kết duyên với bà Lê Thị Điều, người Cần Giuộc, Chợ Lớn. Được ba trai, ba gái, trong số này có bà Nguyễn Thị Khuê là con thứ tư, sinh ngày 24 tháng 12 năm quý hợi (1863). Vóc người mảnh mai, tư dung thanh nhã, lại nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của thân phụ, nên sớm trở nên một trang tài sắc lẫy lừng. Song gặp lúc thời thế đảo điên, lòng người dáo dở, kén cá chọn canh mãi không tìm được nơi xứng ý, nên đến năm cha tạ thế, thiếu nữ đã 25 tuổi mà vãn giữ phòng không. Gia đình hồi ở Ba tri, trong vùng có ngự sử Lê Đình Trọng về htru trí, mở trường dạy học. Vài ba thư sinh gấm ghé cô nữ sinh, nhất là Giảng và Xuyên. Một hôm ông đồ vắng nhà, hai anh đến chơi bàn luận văn chương.

Cô Năm Khuê ra câu:

Đằng tiểu quốc, sự Tề hồ, sự Sở hồ?

(Nước Đằng nhỏ, ở giữa Tề Sở, biết thờ nước nào?)

Anh Xuyên đối:

Ngã đại trượng, phạt Quách hĩ, phạt Sở hĩ

(Gậy ta dài, đã đánh Quách lại đánh Sở)

Cô Năm đỏ bừng mặt, lui vào nhà trong. Một lát, cho con ở ra trao mảnh giấy, có hai câu:

Chiêu Quân nhan sắc nghe ra uổng
Tây tử phong lưu nghĩ lại buồn!

Giảng và Xuyên lủi thủi ra về...

Lúc đó, viên tri phủ sở tại cho người mai mối, bị khước từ, nên đem lòng hờn giận, kiếm chuyện làm khó, đến nỗi gia đình cô phải dời đi Cái Nứa, tỉnh Mỹ

Tho, sao lại chạy sang Rạch Miễu, cùng tỉnh, mới thoát được nanh vuốt. Ở nơi đây, rồi cô kết duyên cùng viên phó tổng Nguyễn Công Tính, sinh hạ được một gái thì chồng tạ thế.

Khi cư tang, cô có bài thơ tự thán:

Năm canh thức nhắp, năm canh những
Nửa gối so le, nửa gối chờ
Vườn én rủ ren trên lôí cũ
Canh gà xao xác giục tình xưa

Và quyết tỏ chí hướng của mình:

Xướng tùy phộn đẹp vợ hòa chồng
Kẻ mất người côn trải mấy đông
Giai lão một câu dành lỗi hẹn,
Hiếu tư hai chữ dốc ghi lòng.
Đã quen ngon với mùi rau ốc.
Đâu nỡ vui cùng thói bưóm ong.
Gương tỏ đời nay trang tiết phụ,
Lâu dài tiếng tốt tạc non sông.

Chính trong lúc này ngoài cửa xôn xao oanh yến, thày bảy Nguyện ở Mỏ Cày gửi thơ trêu:

Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô
Chẳng biết lòng cô nghĩ thế mô?
Không phải vãi chùa toan đóng cửa!
Đây lòng gấm ghé bắc cầu Ô...

Cô Năm đáp ngay:

Chắng phải tiên cô cũng đạo cô
Cuộc đời dâu bể biết là mô?
Lọng sườn dầu rách, còn kêu lọng
Ô bịt vàng ròng vẫn tiếng ô!
Phải thời cô quả, chịu thời cô
Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?
Dòm thấy bụi trần toan dóng cửa
Ngọc lành chi để thẹn danh ô!

*  *  *

Từ đó sống trong cảnh sương phụ, lấy hiệu là Sương Nguyệt Anh. Ba chữ bút danh này sớm nổi lên như cồn trong làng văn tự, vì bà ngâm vịnh rất nhiều, tài học uẩn súc, lời văn lại trau chuốt, khiến nên có nhiều người mộ tiếng, tới lui thăm hỏi.

Một nhà nho ở làng Vnh Kim (Mỹ Tho) là Hô Bá Xuyên trao một bài thơ, ý muốn cùng bà chắp nối:

Trời đất ghen chi chữ sắc tài
Vườn xuân vội úa bảy phần mai!
Gương loan sửng sốt càng ngơ ngác,
Phấn vẽ giồi mài sợ kém phai.
Lặng lẽ duyên hồng tơ tóc vắn,
Vấn vương phận liễu tháng ngay dài...
Bông dào bao thủa thay đôi lứa,
Nỡ để trăng thu xế bóng đoài!

Song bà đã quyết chí ở vậy nuôi con, nên họa lại:

Tài không sắc, sắc không tai,
Lá úa nhành khô cũng tiếng mai!
Ngọc ánh chi nài son phấn điểm,
Vàng ròng há sợ sác màu phai!
Ba giềng trước đã xe tơ vắn,
Bốn dức nay tua nối tiếng dài...
Dẫu khiến duyên này ra đến thê,
Trăng thu dù xế, rạng non đoài!

Một ông phủ tân trào cũng gửi lại mấy câu tâm sự:

Phải gần với Nguyệt lúc lưng vơi,
Đặng hỏi Hang nga nỗi sự đời.
Ở hạ mây mưa còn kém sắc
Về thu non nước tỏ cùng nơi.
Hay trông Dữu Lượng xây lầu trước,
Hoặc đợi Thanh Liên cất chén vời (1)
Vóc ngọc há sờn cơn gió bụi,
Tài tình rõ mặt khá đua bơi...

Bà đáp lại bằng hai bài cự tuyệt:

Đường xa vời vợi, dặm chơi vơi
Nghĩ nỗi mày xanh ngán sự đời!
Biển ái nguồn ân còn lắm lúc
Mây ngàn hạc nội biết đâu nơi!
Một dây oan trái rồi vay trả,
Mấy cuộc tang thương há đổi dời?
Chước quỷ mưu thần ôu những kẻ
Gặp cơn nguy hiểm khó đua bơi!

*  *  *

Hết lúc trăng đầy đến lúc vơi
Doanh hư trong cuộc phải coi đời
Ven mây bắn thỏ xa ngan dặm
Đáy nước cung thiềm tỏ khắp nơi.
Nột trí đứa gian hiềm vẻ rạng
Vui lòng người triết thú đua bơi.
Khơi dòng hối thực ưng ra mặt (2)
Đứng giữa trời xanh tiết chẳng dời!

Một văn hữu cũng gửi tặng thơ:

Đem mình mai một chốn non thần
Cái vóc hoa lành cám bâý xuân
Cội ấm bóng êm lòa nét bạc
Nhành sương lá tuyết ánh màu ngân
Hương thơm đẹp ý người du cảnh
Ngút sạch vui chân khách lạc trần
Nỡ chẳng vẽ hình nơi cửa sấm
Đem mình mai một chốn non thần.

Bài này là họa vần bài Thưởng bạch mai của nữ sĩ:

Non linh dất phước trổ hoa thần
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh mau ngân
Mây lanh gió tạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng bặt khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh dất phước trổ hoa thần.

Con gái bà tên Nguyễn Thị Vinh, sau này gả cho Mai Văn Ngọc. Ba ngày sau khi sinh con gái là Mai Huỳnh Hoa, cô Vinh qua đời. Bà buồn rầu, lên Saigon dạy chữ nho và làm biên tập rồi làm chủ bút tờ báo Nữ Giới Chung.

Thấy Mai Văn Ngọc tám năm chưa tục huyền, bà khuyên:

Có lúc tòng quyền, có lúc kinh
Làm trai nào át khỏi tiền trình
Bơ thờ nắng rọi hoa nghiêng nhụy
Lay lắt mưa qua bướm giấu hình
Ngửa mặt đành cam con thất hiêú
Nghiêng tai chịu tiếng quỷ vô tình
Dưới đời at dứt đường sinh hóa
Trướng chấn riêng ngươi quạnh một mình (3)

Đến khi nền đô hộ Pháp ngày càng đè nặng, bà có thơ:

Thái tức trần gian sự cánh vi
Bỉ thương tạo hóa dụng tâm bi
Nam trì dể cuộc hoàn nan giải
Tự tín dê hồi phản tự nghi.

Dịch nôm:

Ngán thay thế sự cứ sai lầm
Trẻ tạo bày ra chẳng dụng tâm
Cuộc ấy khó hay mà khó giải
Tự ngờ, tự tm, rôí tơ tằm. ..

Ngày vua Thành Thái ngự giá vào Nam, nữ sĩ cảm khái:

Ngàn thu mới gặp hội minh lương (4)
Thiên hạ ngay nay trí mở mang
Tấc đất ngọn rau tràn dưới mắt
Đai co'n bàu rượu chật ven đàng.
Vui lòng thánh đê nơi xe ngựa
Xót dạ thần dân chốn lửa than
Nước mắt cơ cùng trời đất biết
Biển dâu một cuộc thấy mà thương!

Khi thấy lính Việt sang tùng chinh bên Pháp (1914-18) bà cũng làm bài thơ chữ Hán:

Đình thảo thành sao liễu hựu ti
Chinh phu hà nhật thị qui kỳ
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì
Tái bắc vđn trương cô nhạn ảnh
Giang nam xuân tận tảo nga mi
Giác lai kỷ dộ tương tư mộng
Tằng đáo quân biên tri bất tri?

Bài này Nguyễn Đình Chiêm dịch:

Cỏ rạp sân thềm liễu rủ tơ
Chàng đi bao thủa lại quê nhà
Nửa dêm trăng xế lòng ngao ngán
Chiếc gối quyên gào lệ nhỏ sa
Ăi bắc mây dăng che bóng nhạn
Vườn xuân nắng tạc ủ mày nga
Nhớ nhau môý lúc chiêm bao thấy
Ngàn dặm lang quân biết chẳng là!

Làm báo ít lâu, bà mắc chứng đau mắt, chữa mãi không khỏi, sau thành lòa hẳn, lui về ở với bà con ở Mỹ thạnh hòa, đến năm Canh thân ngày 12 tháng l l (4-l-1921) tạ thế, thọ 58 tuổi, mộ để ở cách chợ Ba Mỹ chừng lOO thước, về lối đường Mỹ Chánh (Bến Tre).

 Lãng Nhân

______________________

Chú thích:

  1. (l) Dữu Lượng đời Tấn, phong cách hào sảng, khi ở Giang Châu có xây một lầu cao đặt tên là Dữu Lân để tiếp khách.  Thanh Liên: Lý Thanh Liên tức là thi sĩ Lý Bạch.

  2. (2) Hối thực: thơ Hứa Hồn gửi cho người ẩn giả ở Vị Tân “Vị tân hối thực Nam dương ngọa” (ăn no bên sông Vị, nằm khểnh đất Nam Dương): ý muốn nói theo lối người đi ẩn dật không muốn ra mặt với nhân thế.

  3. (3) Trướng chấn: chấn là Kinh dịch chỉ người con trai đầu lòng.

  4. (4) Minh lương: minh quân lương tướng = vua sáng suốt, tướng giỏi.

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002