Đại Chúng số 75 - phát hành ngày 15-6-2001

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới

CÁC VẤN ĐỀ VỀ TIẾNG VIỆT

Nguyên Nguyên

THỬ TÌM GIẢI PHÁP DÙNG I-NGẮN THAY Y-DÀI CHO “NGƯỜI YÊU”

Hầu như những ai thích đọc sách báo chữ Việt đều biết rằng vào khoảng giữa thập niên 1960, ở Sàigòn bắt đầu có hiện tượng táo bạo cổ súy mọi người dùng chữ I thay cho chữ Y. Thí dụ trong khi bình thường người ta viết: “Tôi có yêu một người đàn ông Mỹ”, những người thích i-ngắn sẽ viết: “Tôi có iêu một người đàn ông Mĩ”. Người cổ võ mạnh mẽ nhất là nhà văn Nguyễn Hữu Ngư. Ông này mê cái mốt-I dữ dội đến độ dùng một bút hiệu thường trực là Nguiễn Ngu Í. Nguiễn Ngu Í chơi thân với học giả Nguyễn Hiến Lê cho nên chẳng bao lâu sau, người ta thấy học giả họ Nguyễn tiếp tục lăng xê mốt-i và từ khoảng đầu thập kỉ 1970 cho đến cuối đời, các tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê đều in các từ dùng Y ra i-ngắn hết. Chỉ trừ họ Nguyễn của tiên sinh không thấy thay đổi chữ y ra i thôi.

Cái mốt thay y bằng i từ thập kỉ 80 cho đến bây giờ gần như mỗi ngày một lan tràn mạnh hơn. Và hiện có vẻ thịnh hành ngay tại Việt Nam. Tuy nhiên luôn luôn người đọc thấy nó như bị một cái hạn chế nào đó. Hạn chế đó hình như dính liền với những lời chế giễu cái mốt-i này. Ai muốn chỉ trích nó rất dễ. Họ chỉ cần lôi tên người nữ ca sĩ có gốc “Bến Ngự Sông Hương” là xong. Họ nói đổi y thành i chắc phải gọi tên ca sĩ Thanh Thúy thành Thanh Thúi sao? Nhở Thanh Thúy chửi mình hay đi kiện mình thì làm sao đây? Thành ra phát triển của mốt-i này luôn luôn bị hảm lại nhờ ở tên tuổi của người ca sĩ đất Cố Đô đó chăng? Những người thuộc “trường phái” mốt-i cũng không chịu thua, và họ thường trích dẫn quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu của học giả Dương Quảng Hàm, trong đó họ Dương có viết đại khái rằng dùng i thay cho y cũng không sao!

    Sau đây xin mạo muội đề nghị một giải pháp cho những người iêu thay y bằng i.

    Trước hết xin quan sát một vài nguyên âm đôi như “ươ” trong từ như “hứơng” hay “hưởng”. Ta để ý trước hết vị trí của dấu sắc hay dấu hỏi. Dấu nằm ở đâu? Trên ư hay trên ơ. Nếu trên ư: hướng sẽ đọc ra là hứ-ơng chứ không phải hư-ớng. Hứơng có dấu trên ư (hứ-ơng) có vẻ có âm không sâu bằng có dấu trên ơ (hư-ớng) và chỉ sắc hơn hương một chút thôi. Do đó âm hướng thật sự đọc ra hướng hoàn toàn nhờ ở dấu sắc đặt để trên chữ “ơ” tức nguyên âm đi sau chứ không phải đi trước (ư).

    Tương tự, ta có thể thử các từ dùng nguyên âm đôi như phường thành ra phừ-ơng và phư-ờng, hay thưởng thành ra thử-ơng và thư-ởng, hoặc phượng ra phự-ơng hay phư-ợng. Ta sẽ thấy ngay có một sự khác biệt nhưng rất ít. Dấu để vào âm sau “đúng” hơn nhưng có đánh sai ra âm trước, cũng không sao, không chết ai! Nhưng phải nhận rằng có... khác.

    Giải pháp để hoá giải cái “âm nạn” “thanh thúi” này trong một ngẫu nhiên nằm trọn trong cách đánh dấu chữ I trong tên Nguiễn Ngu Í. Tức là nếu muốn hoá giải từ THÚY khi dùng I thay cho Y ta PHẢI đánh dấu ngay trên chữ i như trong tên Nguiễn Ngu Í:

    THANH THÚY nếu muốn thay Y bằng I phải viết ra THANH THU-Í

    Tương tự, thủy (nước) sẽ được viết là thu-ỉ.

    Thùy mî (thuì mị (tức thu-ì mị)

    Trọng Thủy (Trọng Thuỉ (tức Trọng Thu-ỉ)

    Thế còn những từ như “suy đoán” thì sao. Ngày xưa đi học tiểu học các thầy các cô thường nói Y còn gọi là Y-cà-réc (Y-grecque - Y của tiếng Hy Lạp). Ngày nay ta thường gọi nó là I-dài. Do đó khi có âm Y cuối của một từ không dấu, nếu cần I thay cho Y, ta chỉ dùng 2 chữ i là xong? “Suy đoán” do đó có thể viết theo người “iêu-i” là SUII ĐOÁN (tức Sui-i đoán, Ok?).

    Tương tự, tuy nhiên viết thành tuii (tui-i) nhiên.

    Tương tự, Mầy sẽ trở thành Mâ-ì hay Mâì. Thành ra lần đầu tiên tiếng Việt có cảnh nguyên âm đôi, mỗi âm lãnh một dấu phía trên! Nghĩa là a trong Mầy có hai dấu: dấu mũ và dấu huyền. Do cách viết “iêu-i” a chỉ mang dấu mũ và dấu huyền nhường lại cho i đi đàng sau! Thí dụ khác: Sức mấy => Sức mâí, có vẻ OK như thường.

    Vẫn còn một cái kẹt! Đó là kẹt ở truyền thống văn hoá con người. Kẹt ở từ Yêu viết thành Iêu có lẽ không quan trọng lắm vì có yêu thì cũng có “không yêu” hay “hết yêu” hay trong khi yêu chợt thấy người yêu mình đôi khi cũng như “yêu” như “quỷ”! Tức là YÊU đổi ra IÊU không vi phạm nhiều lắm đến văn hoá cổ truyền vì theo thông thường nó có nghĩa hơi tương đối và luôn luôn có các từ khác thay thế (như THƯƠNG chẳng hạn). Nhưng trục trặc ở một từ khác nằm trong cốt lõi của văn hoá Việt Nam: đó là Thầy, một từ hàm chứa ít nhiều tính cách thiêng liêng. Thầy nằm trong trục “quân sư phụ” của hệ thống Khổng Mạnh và cũng là từ gọi người Thân Phụ (Cha) trong một số nhiều gia đình ở ngoài Bắc. (Riêng người viết người Sàigòn nhưng không hiểu sao đã gọi thân phụ là Thầy cũng như ông đã gọi ông Nội như vậy). Theo mốt “iêu-i” Thầy sẽ trở thành Thâ-ì.

    Không được, dù đã có một giải pháp cho giới iêu-i, xin mọi người hãy cố gìn giữ lấy Y.

   

THỬ VIẾNG LẠI ÂM CHỮ V VÀ D HAY DZ TRONG TIẾNG YIỆT CỔ

Bài này sẽ xem lại cách phát âm chữ V trong tiếng Việt cổ. Sau đó sẽ thử khảo sát về chữ D như trong một số từ: dung mạo, Kim Dung, dũng mãnh, da mặt, dễ ợt, miệt dưới, v.v... Đặc biệt sẽ cố gắng tìm một giải thích cho lối phát âm D như Dz của người Việt ở phía Bắc. Phát âm chữ D cũng liên quan đến V theo kiểu phát âm miền Nam, và bài này sẽ liên hệ đến một bài trước với tựa: “Thử tìm lại phát âm chữ V trong tiếng Việt cổ” (gọi tắt: Chữ V).

    Trước hết xin tóm tắt những điểm chính yếu trong bài “Chữ Võ:

    1.      Có thể nói tất cả các ngôn ngữ Nam Á và Hán Tạng cho đến khoảng thế kỷ 17 hoàn toàn không có âm bắt đầu bằng chữ V như trong tiếng Pháp, tiếng Anh: vers le soleil, hoặc very bad, và chỉ có âm gần giống nhưng nhẹ hơn W như: đi Wià (đi về), con Uoi (Woi, con voi), Wương Yũ (Wang Yu, tài tử Vương Vũ).

    2.      Từ “Việt” trong Việt Nam, tiếng Quan Thoại gọi là Yuế, Quảng Đông gọi Yuệt, tiếng Nhật gọi “Beto” (gần giống với phát âm người Nam bộ: Byiệt), tiếng Mường gọi Yịt. Do đó theo lối “điền vào chỗ trống cho hợp lýõ, chắc hẳn tiền nhân Việt Nam cho đến thế kỷ 17 đã phát âm từ “Việt” là “Yiệt” hay “Byiệtõ.

    3.      Tương tự một số từ hiện viết bắt đầu bằng chữ V đáng lẽ phải được viết bằng Y theo như nguồn gốc phát âm của chúng:

    Yũ thay vì Vũ, chỉ lông chim, mưa gió (quan thoại: Yu -  có dấu).

    Yiên thay vì Viên, như trong công viên, nhân viên (quan thoại: Yuan).

    Yiễn thay vì Viễn, như trong “viễn vọng” (yiễn wọng, quan-thoại: yuan wang)

    Yiện thay vì Viện, như viện trợ, viện trưởng

    Yĩnh thay vì Vĩnh, như vĩnh biệt (qt: yong bie)

    Yũ thay vì Vũ, như trong “vũ trụ” (qt: yu zhou)

    Yiêm thay vì Viêm, như trong “viêm nhiệt” (yan re)

    v.v...

    Xin ghi chú thêm: Đa số các từ có âm bắt đầu bằng Y thường giống nhau giữa tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông, chỉ trừ một hai ngoại lệ. Thí dụ như từ Vân (Mây). Quan thoại đọc YUN, Quảng Đông đọc Wan theo Bình Nguyên Lộc xuất phát từ tiếng Mã Lai AWAN (mây). 

    4.      Các giáo sĩ và cố đạo người Pháp trong công trình kiến tạo chữ quốc ngữ có lẽ đã dùng chữ V để ký âm cùng một lúc cho chữ W và  Y (hay By theo lối đọc phía Nam). So với các ngôn ngữ khác của Á Châu như tiếng Nhật, tiếng Tàu, tiếng Nam Dương (Inđô) tiếng Việt thiếu hẵn chữ W đáng lẽ đứng vào vị trí then chốt của chữ V. Chữ quốc ngữ do các giáo sĩ Tây tạo dựng cũng không dùng chữ Y như Y trong tiếng Anh: YES, YOU, YELL, mà lại dùng như i trong một số ít từ như: Yêu, Yếu nhân, chim Yến, tất cả đều có thể thay bằng i: iêu, iếu nhân, chim iến. Hoặc Y theo tính chất i-dài chỉ dùng ở cuối từ như: Thúy Kiều, tuy nhiên, suy đoán, thấy, v.v.. (Gần đây người ta có thể thấy rằng Y ở cuối từ vẫn có thể được hoàn toàn thaii thế bằng i-ngắn. Xin đọc “Thử tìm giải pháp cho người yêu thay i-ngắn cho y-dài”).

    Nếu so sánh một quyển tự điển Việt-Anh với một quyển tự điển Hoa-Anh ta sẽ thấy tự điển Việt không có trang nào chứa từ bắt đầu bằng chữ W, và ngược lại tự điển Hoa không có chữ V, mặc dù có đến 60 phần trăm từ Việt xuất thân từ tiếng Hán tức tiếng Hoa (xem Vũ Thế Ngọc: “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt” EastWest Institute 1989). Ngôn ngữ của dân tộc Inđô (Nam Dương) cũng vậy, gần như hoàn toàn không có âm bắt đầu bằng V, mà chỉ có âm W, như trong tên phổ thông Widjaja. Đặc biệt, nếu xem qua các tự điển Việt-QuanThoại hay Việt-QuảngĐông ta sẽ thấy các từ hiện viết bắt đầu bằng V như vũ-trụ, viên-mãn, Việt-Nam, công viên, v.v., thật sự đáng lẽ phải được ký âm hay viết bắt đầu bằng chữ Y: yũ-trụ, yiên-mãn, Yiệt-Nam, công yiên, v.v., chiếm đến khoảng 30 phần trăm của các từ gốc Hán Yiệt bắt đầu bằng chữ V. Thêm vào đó một số từ thuần nôm có liên hệ gốc gác ít nhiều đến các ngôn ngữ Nam Á như tiếng Mã Lai, tiếng Mường và một lô các thứ tiếng của dân tộc ít người tại bán đảo Đông Dương chắc hẳn đã được phát âm bằng By như Byua (Vua) -   theo kiểu người Nam bộ -  lại chiếm thêm một số phần trăm nữa. Phần còn lại, những từ bắt đầu bằng V có lối phát âm V theo kiểu Tây Phương và người phía Bắc, nguyên thủy được mượn từ tiếng Tây, tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha, Latinh, v.v. dùng để ký âm và thay thế âm W của tiếng Yiệt cổ. Đó là những từ như: Về (Wìa hay We, Yiệt cổ), Văn hoá (wen hua, qt), vạn (wan), vương (wang, qt), v.v. Thành ra trong lối phát âm chữ V trong tiếng Việt, cả người Nam bộ và người phía Bắc đều phát âm biến đổi so với tiếng Yiệt cổ mỗi bên khoảng 50 phần trăm, 50-50!! Muốn nhớ điều này cứ lôi tên tài tử phim kungfu của Hongkong tên Vương Vũ. Người Bắc bộ phát âm như  Vương Vũ,  người miền Nam như Yương Yũ -  và chính ra phải Wương Yũ theo như gốc tiếng Tàu: Wang Yu. Yũ ở đây có nghĩa lông chim chứ không phải Vũ của vũ công.

    Những từ thuần nôm chắc hẳn đã được phát âm như By theo kiểu Nam bộ hiện rất khó tìm vì đòi hỏi công trình nghiên cứu rất công phu, cũng như việc đối chiếu với các ngôn ngữ của các dân tộc ít người tại Việt Nam, và của người Mã Lai, người InĐô, v.v.. Trước mắt chỉ có hai tài liệu, một của Bình Nguyên Lộc (BNL) “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” xuất bản tại Sàigòn 1971 và hai,  bài của Hồ Lê trong quyển kỷ yếu của nhiều tác giả “Tiếng Việt và các Ngôn ngữ Dân Tộc phía Nam” xuất bản 1992 tại Sàigòn. Xin trích ra một số từ bị “tình nghi” là thủ phạm của lối phát âm V như By của người Nam bộ:

    Vải (fabric): byải (tiếng Mạ), kpải (Bàna)

    Vua (king): Bua (Việt thế kỷ 17), Bua (Mường), BĂưa (Bàna)

    Vàng (yellow): Yèng (Mường)

    Vuốt (vuốtve, caress): puôt (Xtiêng), phyê (Danaw), xapu (MãLai), xpôt (Môn)

    Vú (breast): bu (Palaung, Riang), pu (Darang, Son, Angku). “Bú vú” xuất phát từ đây chăng?

    Vai (shoulder): yaq (Palaung), pnah (Mường)

    Vơ (dùa, sweep off): yô (Khơme), yôk, iok (Banah), yôk (Xơđăng)

    Vé (ticket): Piao (quan thoại)

    Vía (hồn viá, soul/spirit): piái (Mường)

    Vàm (sông Vàm Cỏ): Piam (Mã Lai)

    Rõ ràng chữ V đã được các giáo sĩ dùng để ký âm một lúc 2 âm W và Y (hay By). Tỉ lệ phân phối hai âm W và Y (nếu kể luôn By) này trong tiếng Yiệt cổ rất có thể lên đến 50-50 (fifty-fifty!!), tức  âm nguyên thủy Y (hay By theo kiểu Nam Bộ) hiện đều được viết  V chiếm tỉ số rất cao, cao hơn nhiều người nói tiếng Việt vẫn hằng nghĩ đến! Thắc mắc hiển nhiên nhất sẽ là tại sao người Bắc Hà (phía Bắc sông Gianh) lại tống hết các âm W và Y vào với V, và người Nam Hà có khuynh hướng nhét hết hai thứ W và Y vô âm Y hay By. Hơn nữa, tại sao vấn đề quá giản đơn và hiển nhiên như vậy lại nằm trong đống cát bụi của một thời gian quá dài như Nguyễn Du đã ao ước có người sẽ hiểu ông:

    Bất tri tam bách dư niên hậu

    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

    (Ba trăm năm nữa ai người sẽ

    Nhỏ lệ buồn cho một Tố Như)

    Một phần của việc truy tìm giải đáp cho những thắc mắc này cũng được dùng để giải thích hiện tượng tại sao người Bắc Bộ lại có khuynh hướng phát âm Y như Dz (trong những từ bắt đầu bằng D:  Dũng, Dung, Dương Qua), sẽ được đề cập phía sau. Nhưng trước hết xin mạo muội đưa ra một số giả thiết nhằm giải thích một hiện tượng “động trời” V đọc cho W và Y trong ngôn ngữ Việt Nam, đã nằm trong bóng tối trong khoảng 3 trăm năm!

    Thứ nhất, như gần 2 triệu người Việt hiện định cư tại nước ngoài có thể nhận xét, muốn thông thạo một ngoại ngữ người ta cần phải sinh sống và xử dụng ngôn ngữ đó ngay tại nước đó ít lắm từ  10 đến 20 năm. Tốt nhất là sinh đẻ ngay tại nước ngoài thì giọng nói mới không bị lớ (accent). Nhớ người Hoa tại Việt Nam, lúc nào họ nói tiếng Việt vẫn có accent, vẫn bị lớ. Chỉ trừ những thiếu niên người Hoa đi theo học trường Việt  ngay từ nhỏ khả dĩ mới có thể “hoà mình” với giọng nói của người Việt bản xứ. Các giáo sĩ có công kiến tạo chữ quốc ngữ chắc chắn cũng đã bị lâm vào tình trạng “chưa rành” tiếng Nôm mà phải ra công ghi ký âm tiếng Nôm bằng chữ cái alphabê của tiếng Latinh để tạo dựng  chữ quốc ngữ! Ngôn ngữ nào đối với người nước ngoài cũng “khó” cả. Một trong những yếu tố khiến ngôn ngữ trở thành khó khăn đối với người nước ngoài là việc biến chuyển ý nghĩa của từ (nuances) theo với thời đại, và biến chuyển của giọng nói hay cách phát âm theo địa phương. Thí dụ, đọc truyện kiếm hiệp ta thấy người Hoa dùng “giới giang hồ” có nghĩa những người từng trải, nay đây mai đó, đi sông vượt hồ, hành hiệp cứu người. Sang qua tiếng Việt qua dòng thời gian, “giang hồ” đi với gái giang hồ lại mang nghĩa “gái điếm”. Ở Sàigòn cứ vài năm là có một cụm từ mới, như “sức mấy”, “bề hội đồng”, “bỏ qua đi tám”, “tuyệt chiêu”, v.v.. Những biến chuyển này không có một từ điển nào cập nhật cho kịp! Biến chuyển theo với địa phương quá hiển nhiên không cần đề cập nhiều ở đây -  nhưng chỉ xin đơn cử thí dụ người Bắc Hà, xin được nhấn mạnh sau thế kỷ 17 chứ không phải trước đó, có một khuynh hướng phát âm quốc ngữ như cuốc ngữ và người Nam đọc quấc ngữ; người Trung và người Nam phát âm Cộng Hoà như Cọng Hoà (trên một hai con tem thời 1954-65 còn viết Cọng Hoà),... Do đó ta có thể xác nhận rằng trong tình thế “khẩn trương” đòi hỏi một ngôn ngữ dựa trên mẫu tự  Latinh cho tiếng “An-Nam” trong công cuộc truyền giáo của mình, các giáo sĩ Tây Phương mặc dù chưa nắm vững hoặc hiểu thật r” hay phát âm tiếng Nôm vẫn còn  accent, vẫn còn lớ, đã tạo dựng nên phần lớn của căn bản chữ quốc ngữ cho nước Nam.

    Lý do thứ hai, và lý do này liên quan đến việc dùng chữ cái V phiên âm một lượt cho hai âm W (con Woi/ voi) và Y hay By (ông Byua/ vua), cho  tiếng Nôm ở thế kỷ 17. Đó là ta phải xem thật ra đối tượng chính trong công cuộc ký âm ban đầu tạo dựng chữ quốc ngữ là ai. Đối tượng chính, theo thiển ý, thật ra không phải là người Việt Nam! Người Việt Nam chỉ là đối tượng phụ. Đối tượng chính là những ông giáo sĩ khác, những người trong giới cầm quyền ở tận Paris, những người “lái buônõ, những thương gia đang qua lại miền Đông Á, tất cả đều là người Pháp. Bởi đối tượng chính này là những người Tây nên cái tiêu chuẩn hay ràng buộc hàng đầu cho các giáo sĩ  đã là phải cấu trúc tiếng Việt làm sao cho các ông Tây bà đầm có thể đọc được dễ dàng. Tức là tuyệt đối không được dùng chữ cái W   (của tiếng Anh, tiếng Hoà Lan, tiếng Đức, v.v.)  để phiên âm cho Wăn Hoá, Wương Yũ, đi Wề, v.v. mà phải dùng V cho Văn hoá, Vương Yũ, đi về, v.v. bởi những ông Tây sau đó nếu phải xử dụng âm W, như trong con Woi (voi), sẽ bỡ ngỡ và có thể gặp khó khăn, và có thể than phiền với nhà cầm quyền ở Paris hay với giáo hội. Tuyệt đối cũng không được dùng Y ở đầu từ mang âm như YES, Yummy, Yul Brynner, v.v. trong tiếng Anh, mà chỉ dùng nó như i ở đầu từ (như yêu / iêu, đau yếu / iếu) và như i-dài ở cuối từ (như ThaY đổi). Để đáp ứng với đòi hỏi khó khăn này các giáo sĩ đã vay một chữ cái mang âm hoàn toàn khác biệt với Y (cho Yũ / vũ: mưa, Yiên chức / viên chức, v.v.)  để thay thế cho Y. Đó là chữ cái D như trong Dầu, dương thế, dễ dàng (đáng lẽ phải là yầu, yương thế, yễ yàng!), v.v.. Chữ D-tây này đọc là Đ của tiếng Việt như trong dans la salle, diaspora, Disneyland, Demi Moore, Denis Quaid, v.v. bị dùng để thay cho Y, nên các giáo sĩ lại mượn Đ của tiếng nước Băng Đảo (Iceland) nằm ở  phía Bắc nước Anh đem vào trám chỗ cho chữ D-Tây.   Việc thay thế Y bằng D-tây, rồi Đ cho D-tây, theo thiển ý, là một điểm thiếu hoàn hảo quan trọng trong việc cấu tạo chữ quốc ngữ của các giáo sĩ Tây phương, như sẽ đề cập phía sau. Ta có thể bắt chước nữ tài tử Joan Collins gọi đó là Past-Imperfect (quá khứ không hoàn hảo).

    Cũng bởi hai lý do nêu trên, hai âm W và Y bị sát nhập lại làm một. Người Nam Hà trong quá trình học chữ quấc ngữ đã lẫn lộn các từ bắt đầu bằng W thành ra Y hay By bởi họ chỉ nhìn thấy tất cả những từ đọc bằng Y và W trong nguyên thủy đều viết bắt đầu bằng chữ V.  Người Bắc Hà ngược lại hoan hô chữ V mới thay cho âm W cũ (âm W, như trong con woi, Wương Thúy Kiều, đều hiện diện trong tất cả các thứ tiếng như tiếng Tàu, tiếng Nhật, tiếng In-Đô và như hầu hết các ngôn ngữ Đông Nam Á) và trong quá trình nhận dạng chữ V viết cho các từ đáng lẽ viết bằng Y hay By như Yũ trụ, Buya chúa, công yiên, yiện trưởng, v.v. họ dần dà phát âm luôn, nhưng đúng theo ký hiệu chữ V-tây, thành ra vũ trụ, vua chúa, công viên, viện trưởng, v.v.. Lối “đọc thay đổi với âm nguyên thủy” này ta có thể tạm gọi là lối biền đổi “hài thanhõ, những người học chữ Hán đều quen thuộc. Đó là những từ vì viết chữ có phần gốc giống nhau, nên có âm giống nhau. Thí dụ miêu dùng để chỉ con mèo, cũng đọc là miêu để chỉ “mạõ, miêu để chỉ cái mỏ neo. Nay gọi “lối bíến đổi hài thanh” dùng để diễn tả tâm trạng chữ V đi làm dâu hai họ W và Y. Sẽ có người lộn V với Y rồi đọc nó là Y (như yăn hoá, yăn yõ, thay vì văn hoá, văn võ) như người Nam. Cũng sẽ có người vẫn lộn nó luôn luôn dùng để thay cho W nhưng theo kiểu hài thanh sẽ tiếp tục đọc nó là V luôn tuốt cho những từ có âm bắt đầu bằng Y (như vũ lộ, viên chức, thay vì yũ lộ, yiên chức), như người Bắc.

Bài đã dài, xin được bàn tiếp vấn đề này trên Đại Chúng số 76.

Nguyên Nguyên

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002