Đại Chúng số 77 - Lễ Độc Lập 4/7/2001

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới

MỔ XẺ VÀ PHÊ BÌNH NHỮNG “TIẾT LỘ BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG CHÁNH TRỊ QUANH TỔNG THỐNG THIỆU” CỦA CỰU PHỤ TÁ
NGUYỄN VĂN NGÂN.

• MẤT MIỀN NAM TẤT YẾU PHẢI XẢY RA VÌ NGƯỜI QUỐC GIA KHÔNG CÓ “CHỖ ĐỨNG”. NHẬN XÉT NÀY ĐÚNG HAY SAI? NGỤ Ý GÌ?

• CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI ĐỌC: THẤT VỌNG! VÌ NGUYỄN VĂN NGÂN ĐÃ TỎ RA KHÔNG BIẾT GÌ NHIỀU VỀ “BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG CHÍNH TRỊ”, CHỈ NÓI LÊN NHỮNG NHẬN XÉT CÁ NHÂN, VỚI MỘT TRÌNH ĐỘ HIỂU BIẾT QUÁ NÔNG CẠN ẤU TRĨ!

ĐẶNG VĂN NHÂM

 

SAU 26 NĂM IM HƠI LẶNG TIẾNG...

Trên baó Ngày Nay, số 458, (từ 1-15. 6.2001), phát hành tại Houston, Texas,HK, có đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, cựu phụ tá đặc biệt của cựu TT Thiệu. Bài phỏng vấn này khá dài, gồm 15 câu hỏi và trả lời, đã được đăng cách trịnh trọng trên mặt báo, ngang hàng chữ nhãn báo (manchette) NGÀY NAY, với tưạ đề 3 cột, có hàng chữ nguyên văn như sau: “Sau 26 năm yên lặng, ông phụ tá NV Ngân lên tiếng:  PHỤ TÁ CỦA T.T. THIỆU TIẾT LỘ BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG”.

Ngay hàng dưới kế tiếp, như tiểu đề, có thêm 2 hàng chữ nữa: - Ông Ngân đã nói gì về các tướng Khiêm, Kỳ, Big Minh, Quang... và cả ông Thiệu. - Mỹ đã chi tiền để lũng đoạn lãnh đạo miền Nam ra sao?”.

Nhưng trước khi độc giả bước vào bài phỏng vấn ấy, còn phải đọc qua một bài có tính cách dẫn nhập của nhà báo Trọng Kim (đề ngày 23.5.2001). Dĩ nhiên bài này không có gì phải đề cập đến. Cũng như một đoạn ngắn “lời toà soạn” tiếp theo ngay sau đó vậy!

Bây giờ, người đọc đã có thể bắt đầu nhìn thẳng vào tựa đề bài “phỏng vấn đặc biệt”   của báo NN, trang B, bề ngang 4 cột, chạy suốt một trang, với tưạ đề chính thức, kể cả những hàng chữ tiểu đề [có khác ít nhiều với những hàng tưạ đề trên mặt tờ báo] như sau:

_ Sau 26 năm giữ yên lặng, lần đầu tiên ô. Nguyễn Văn Ngân cựu phụ tá chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng, trả lời phỏng vấn của Ngày Nay: TIẾT LỘ NHỮNG BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG CHÍNH TRỊ QUANH T.T. THIỆU.

Đồng thời, người ta cũng tìm thấy bài phỏng vấn này còn đăng trên tờ báo chợ Sóng Thần, phát hành ngày 26.5.01, tại Virginia, miền Đông HK, vẫn một tên người phỏng vấn là Phan Thanh Tâm; nhưng tựa bài lại khác, đọc lên thấy có mùi “trinh thám, kỳ tình tiểu thuyết” của nhà văn Phú Đức như sau: “NGƯỜI NGUY HIỂM SỐ 1 NGUYỄN VĂN NGÂN NÓI VỀ HẬU TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VNCH...”!

 

TÓM LƯỢC NHỮNG Ý CHÍNH.

Trong bài phỏng vấn, ông Ngân đã phát biểu về những vấn đề có thể tóm lược sau đây: Nguyên nhân thảm bại của VNCH là do chính sách viện trợ Mỹ, và người quốc gia đã không có chỗ đứng. Vậy, sự mất miền Nam năm 1975 là điều tất yếu, tức không thể nào tránh được, như một thứ định mệnh đã được thượng đế an bài sẵn. Tuy nhiên, dù trong phần tiền đề đã khẳng định như vậy, nhưng ông Ngân vẫn còn cố tình nêu thêm ra một số nguyên nhân khác nữa thuộc phạm vi  nội bộ của miền Nam VN như: Tập đoàn các tướng lãnh đều xuất thân từ môi trường xấu, đã được sản xuất từ lò “partisan” của Tây, tức những phần tử thất học, vô nghề nghiệp, phải đăng lính để kiếm sống. Vì thế, họ đã không có lý tưởng chiến đấu, chỉ lo vinh thân phì gia, tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức, nuôi lính ma, lính kiểng... Trong số đó chỉ có một mình tướng Thiệu, tức là “chúa” của bầy tôi khuyển mã Nguyễn Văn Ngân, là tài giỏi hơn hết và đã dám đương cự với người Mỹ - chửi lén Kissinger, theo lời ông Ngân kể như một bằng chứng hùng hồn! - mà thôi.

Trong khi đề cao TT Thiệu, ông Ngân tuyệt nhiên không đề cập gì đến những hành động hối mại quyền thế, tham nhũng, thối nát, trấn lột tiền bạc, bao che và thông đồng trong các dịch vụ buôn lậu ma tuý, vàng, đầu cơ phân bón, đầu cơ gạo... Ông Ngân lại còn không ngại miệng bào chữa cho TT Thiệu trong cuộc độc diễn bầu cử năm 1971, và tu chính hiến pháp để cho Thiệu ra tranh cử pháp nhiệm 3 rồi sẽ dài dài đến mãn đời... coi như đó là một hành vi để phục vụ dân tộc và đất nước!

Nhưng ngược lại, ông Ngân lại không tiếc lời thoá mạ cựu TT Trần Thiện Khiêm, đánh giá ông Khiêm như một kẻ phản trắc vô lường, chẳng khác gì loài rắn độc, cực kỳ nguy hiểm, chỉ biết có quyền lợi cá nhân, bất tài, nhưng hám chức vụ. Suốt thời gian cầm quyền thủ tướng chỉ “ngậm miệng ăn tiền”, ù lì và bất động...

Tóm lại, khi kết tội các giới tướng lãnh và TT Khiêm như thế, tức ông Ngân đã muốn biện minh cho người đọc biết rằng sự mất miền Nam năm 1975, chẳng phải do lỗi lầm và trách nhiệm của TT Thiệu, mà ông đã từng đóng vai phụ tá chánh trị, tức một loại tòng phạm của đại tội đồ dân tộc. Miền Nam mất chẳng qua là một sự tất yếu, vô phương thoát khỏi. Nhưng sở dĩ miền Nam đã bị mất một cách quá nhanh chóng và nhục nhã như mọi người đều biết chẳng qua vì giới tướng lãnh bất tài, thối nát, không có lý tưởng, mà điển hình là TT Trần Thiện Khiêm, và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH vừa bất tài, lười biếng, hèn nhát lại sẵn sàng ngoan ngoãn làm tay sai cho CIA Mỹ !

Xét chung toàn bài phỏng vấn này, tuy đã được gắn cho những hàng chữ chủ đề rất giật gân, pha lẫn chút mùi vị trinh thám, gián điệp kỳ tình ba xu như: “TIẾT LỘ NHỮNG BÍ MẬT HẬU TRƯỜNG CHÁNH TRỊ QUANH TT THIỆU” hay” NGƯỜI NGUY HIỂM SỐ 1 NÓI VỀ HẬU TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VNCH”..., nhưng thực chất chứng tỏ rõ ràng ông Ngân đã  chẳng biết gì nhiều về bí mật hậu trường. Những điều ông đã trả lời trong cuộc phỏng vấn này, ngoài những nhận xét nông cạn, chẳng qua đều là những chuyện mà trên 30 năm trước đây các báo chí Việt ngữ ở Sài Gòn và báo chí ngoại ngữ đã đăng tải đầy rẫy đến mức thừa thãi, mà bất cứ ai có trí nhớ bình thường đều có thể nhắc lại được không khác ông Ngân bao nhiêu!

Chẳng những vậy, qua bài phỏng vấn này, người đọc càng không khỏi thêm thất vọng hơn, đến nỗi phải chép miệng than thầm một câu não nuột: “Trời ơi, trình độ hiểu biết và nhãn quan về chính trị  của một anh phụ tá đặc biệt của một ông tổng thống (Thiệu!) mà lại ấu trĩ, thiển cận đến cỡ này... thì làm sao chống chọi lại với CS cho được! Như thế  sự mất miền Nam vào tay CS cũng đúng là điều... tất yếu như hắn đã nói thôi!”...

 

PHÂN TÁCH VÀ PHÊ BÌNH.

Bởi khuôn khổ báo Đại Chúng có hạn, vả lại, sau khi đọc hết bài phỏng vấn này, chúng tôi nhận thấy không cần thiết phải đăng lại nguyên văn. Vì lý do chính yếu sau đây: Mục đích bài phỏng vấn không thực sự đi tìm sự thật của những bí mật hậu trường chánh trị miền Nam trong phạm vi hiểu biết giới hạn qua chức vụ phụ tá của ông Ngân. Như thế, tức là không nhắm mục đích thuần túy phục vụ quyền lợi của độc giả.

Hơn thế, những ai đã đọc hết bài phỏng vấn này, nếu có một trình độ hiểu biết bình thường, cộng thêm một chút từng trải và nhạy cảm đều có thể ngửi thấy ngay cái mùi vị “GIAO TẾ” của một bài phỏng vấn “tài tử”, qua lối nêu câu hỏi không một chút thắt buộc ráo riết, không biết xoáy tròn vào chủ đề và không biết đào sâu vào chi tiết. Như mọi người đều biết, nguyên nhân mất miền Nam là một vấn đề hết sức phức tạp chứa đầy mâu thuẫn chằng chịt, thế mà  người phỏng vấn đã chỉ nêu lên những câu hỏi lang bang, rời rạc, lỏng lẻo, có khi vô bổ, dường như chỉ muốn dẫn lối mở đường cho hiêu nai chạy, hay ngầm giúp cho người đối thoại (Nguyễn Văn Ngân) được dịp giải tỏa những ấm ức riêng tư, nhưng khéo léo lồng trong đại cuộc chính trị.

Tuy nhiên, sau khi đã gạn lọc và loại bỏ hết những chi tiết râu ria  vô bổ đầy rẫy trong bài phỏng vấn ấy, chúng tôi qui định bài phân tách và phê bình này của chúng tôi vào một số trọng điểm gồm  :

- Chỗ đứng của người quốc gia trong cuộc đối địch giữa tư bản và CS quốc tế. Tương quan giữa Mỹ và VNCH.

- Khả năng và trách nhiệm cũng như những đại tội đối với dân tộc và đất nước của TT Thiệu, cùng một số tướng lãnh cầm quyền cai trị khác. Trong đó hiển nhiên phải kể đến cả đại tội đồ Nguyễn Văn Ngân!

- Những nhận xét của ông Ngân về cá nhân và đại tội của tướng Trần Thiện Khiêm.

- Ông Ngân muốn chạy tội, muốn đánh bóng và quan trọng hoá cá nhân mình? Nhưng thực chất Nguyễn Văn Ngân là ai? Có phải Ngân là CS nằm vùng như ông đại sứ Nguyễn Văn Kiểu đã từng tiết lộ với một số tướng lãnh và thân hữu, nhờ đó tác giả BMHTCTMN đã biết được không?

Làm việc này, tuy mất rất nhiều công phu  nghiên cứu và thì giờ suy nghĩ, nhưng chúng tôi thiết tưởng như vậy sẽ giúp độc giả, dù cho không am tường  thời sự đã xảy ra ở quê nhà ngót nửa thế kỷ rồi vẫn sẽ nắm vững được toàn bộ nội dung bài phỏng vấn rườm rà, lê thê này. Mặt khác, bạn đọc còn có thể khám phá ra dụng tâm khéo léo chạy tội cho mình, cả cho cựu TT Thiệu, và tô lục chuốt hồng cho chế độ thối nát đệ nhị CH .

 

NGƯỜI QUỐC GIA KHÔNG CÓ CHỖ ĐỨNG!

Ngay khởi đầu bài phỏng vấn đã có câu hỏi nguyên văn: “Chúng tôi xin ông cho biết, theo ông, những nguyên nhân nào đã gây ra sự sụp đổ của chế độ VNCH?”

Ông Ngân đã trả lời tóm tắt, trích lược chính xác như sau:

- Sau thế chiến 2, tương quan giữa các quốc gia trên thế giới  ở trong thế lưỡng cực. Hiệp định Genève 1954 đã chia đôi VN: Miền Bắc nằm trong khối CS. Miền Nam nhận viện trợ Mỹ. Do đó cuộc chiến VN vừa là nội chiến vừa là cuộc chiến ủy nhiệm. Năm 1965, miền Nam có thêm 500.000 quân Mỹ (đúng ra phải nói là quân đồng minh!); trong khi đó miền Bắc cũng tăng cường 300.000 quân Trung Cộng, phi công Bắc Hàn, chuyên viên hỏa tiễn SAM người Cuba...

Sau khi nêu nhận xét như trên, ông Ngân cho biết lý do ngoại lai là: “Viện trợ của Mỹ chỉ nhằm làm cho miền Nam lệ thuôïc vào Mỹ, thay vì giúp cho miền Nam có thể tự lực cánh sinh... tiêu biểu cho chính sách ”tân thực dân” sau thế chiến thứ 2. Trong khi CS tiếp tục chính sách bành trướng thì HK rút quân và cắt giảm viện trợ. Việc mất miền Nam tất yếu phải xảy ra vì trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và CS không có chỗ đứng cho người quốc gia”! (nguyên văn)

Còn nguyên nhân nội tại, tóm tắt ý kiến của ông Ngân gồm: “Nạn tham nhũng trầm trọng và sự phân hoá trong hàng ngũ quốc gia đã tiếp tay cho sự sụp đổ. Trường hợp này cũng tương tợ như Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1949 đã để cả một lục điạ rơi vào tay CS. Nhưng nguyên nhân căn bản của sự sụp đổ miền Nam ngày 30.4.75 chính là tổ chức chính trị xã hội của miền Nam tự nó không đủ sức đề kháng với cuộc chiến tranh khuynh đảo và xâm lăng của CS. Xã hội miền Nam là một xã hội “mở”...”

Từ chỗ phân biệt “xã hội mở” (miền Nam) với dụng ý ám chỉ miền Bắc  là “xã hội đóng” (?), ông Ngân tiến tới ý nghĩ: “muốn  chống lại CS, miền Nam phải có một chế độ độc tài kiểu phát xít Hitler mà CS Nga rất sợ. Vấn đề được đặt ra là tại sao chúng ta lại dùng một sự man rợ  này để chống lại một sự man rợ khác? Tại sao chúng ta phải hy sinh những giá trị mà vì đó chúng ta phải đấu tranh với CS để bảo vệ ?

Tuy nhiên nhờ có mô hình “xã hội mở” dân tộc VN mới biết được ý niệm dân chủ tự do dưới chế độ chính trị của các thời đệ nhất và đệ nhị CH tại miền Nam VN. Dù không hoàn hảo, nhưng phải công nhận đó là những chế độ chính trị tốt đẹp nhất trong lịch sử VN cho đến nay...”

 

TẠI SAO NGƯỜI QUỐC GIA KHÔNG CÓ CHỖ ĐỨNG ?

Nên nhớ tất cả những đoạn chữ nghiêng, đóng trong khung ngoặc đơn trên đây, đều trích nguyên văn lời hỏi đáp của bài phỏng vấn. Sau đây là phần mổ xẻ và phê bình của chúng tôi:

Thú thực, ngay sau khi vừa đọc hết đoạn trả lời này của ông Ngân, tôi không khỏi bàng hoàng, ngạc nhiên về trình độ hiểu biết và khả năng nhận định chính trị của một vị cựu phụ tá chính trị của TT Thiệu. Nhưng sự ngạc nhiên ấy chỉ thoáng qua rồi tan biến ngay, khi tôi chợt nhớ lại vài nét về tiểu sử và quá trình hoạt động của nhân vật này. Nhưng dù sao, tôi vẫn không thể chẳng tiếp tục nêu lên đây vài nhận xét của tôi về những ý kiến của ông Ngân đã nêu trên.

Trước hết, hãy gạt bỏ ngay cho khỏi mất thì giờ và tốn giấy mực về những nhận định cạn cợt, tầm thường, mà bất cứ một độc giả bình dân nào có trình độ hiểu biết thời cuộc tầm thường nhất cũng đã thừa biết từ lâu rằng cuộc chiến “nồi da sáo thịt” ở VN sau đệ nhị thế chiến vốn là một cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” giữa 2 thế lực tư bản và CS quốc tế. Nhưng nếu chịu khó mở mắt ra, ném một cái nhìn chung, phớt qua trên bản đồ thế giới, ta còn nhận thấy VN chẳng phải là một dân tộc duy nhất đã bị lôi cuốn vào cuộc “chiến tranh  uỷ nhiệm” này. Thí dụ điển hình và cụ thể không thiếu gì, chỉ xin lược kể những nước đã từng bị chia đôi chẳng khác nào VN như: Trung Hoa, Hàn Quốc... Xa hơn một chút, đến vùng Trung Đông thì có  nước Yemen và nước Đức ở Âu Châu...

Nhưng kể từ đó đến nay, thử hỏi ông Ngân, đã có một nước nào trong số kể trên ấy đã bị người Mỹ bỏ rơi cách tàn nhẫn và cả một chánh phủ từ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, thủ tướng chánh phủ, đại tướng tổng tham mưu trưởng và các tướng tá đã bỏ mặc số phận của hàng triệu binh sĩ  còn đang ngơ ngác trên chiến trường, để hè nhau dắt díu bầu đàn thê tử, ẵm cả những gia tài kếch xù chạy trốn CS cách nhục nhã  ra hải ngoại hay không?

Hiển nhiên câu trả lời phải là “KHÔNG! DỨT KHOÁT KHÔNG!”. Như vậy, trường hợp miền Nam đã bị CS đánh chiếm dễ như ta giựt viên kẹo trong tay đưá con nít khờ khạo, bịnh hoạn, bụng ỏng đít teo, chưá đầy giun và sán lải, là một hiện tượng độc nhất vô nhị từ sau đệ nhị thế chiến đến nay. Có phải thế không ông phụ tá tổng thống?

Một khi nếu ông Ngân đã không the åchứng minh được một nước thứ hai nào, trong số Trung Hoa, Đại Hàn,  Yemen và Đức Quốc (cùng một hoàn cảnh  qua phân như VN) bị mất về tay CS, thì ông không thể nào được phép hàm hồ kết luận cách chắc nịch như đóng chiếc đinh cuối cùng lên nắp tấm ván thiên của cỗ quan tài VNCH bằng câu: “Việc mất miền Nam VN tất yếu phải xảy ra, vì trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và CS không có chỗ đứng cho người quốc gia”(!)

Vậy, bây giờ đứng trước một kết luận đã chắc nịch như thế, ta đành phải bất đắc dĩ chịu khó tìm hiểu thêm vào chiều sâu sự dụng tâm của ông Ngân  xuyên qua cách sử dụng hai chữ “chỗ đứng”. Nơi đây, nói về “chỗ đứng” ta phải hiểu thâm ý của ông Ngân muốn nói: Có điạ vị chính thống, có danh chánh ngôn thuận tức là có chính nghĩa.

Khi đã hiểu được thâm ý đó rồi, người đọc sẽ vỡ lẽ ra ngay rằng: Trong cuộc chiến “uỷ nhiệm” giữa tư bản và CS quốc tế, người quốc gia VN (theo phe tư bản Mỹ) tức không có chính nghiã đối với nhân dân. Tất yếu phải thua! Ngược lại, người CSVN, vì có điạ vị chính thống, có danh chánh ngôn thuận, tức có chính nghiã, đã tất thắng !

Sở dĩ, trong đoạn này, ông Ngân đã không dám nói toạc ngay ra thâm ý của mình, có lẽ vì ông còn ngại có thể sẽ bị một số người chống Cộng mù quáng trong cộng đồng tị nạn ở Mỹ chụp lên đầu ông một cái nón cối. Đối với những kẻ trần trụi, đầu đội trời chân đạp đất như bọn dân thường chúng tôi đây thì không ai lo sợ gì khi bỗng nhiên vô cớ bị chụp cho cái nón cối lên đầu. Nhưng ngược lại, riêng đối với ông Ngân, theo tôi biết, chiếc nón cối ấy có thể sẽ dẫn đến những chuyện bí mật hậu trường chính trị miền Nam khác nữa liên quan đến tiền tích “vượt tuyến” năm 1955 của ông, cùng với lời thố lộ rất giới hạn của ông Kiểu, bào huynh của TT Thiệu, tố giác ông Ngân là một CS nằm vùng!

Nên biết, tôi đã có dịp quen biết ông Kiểu khá lâu, từ năm 1952, lúc bấy giờ nhà ông Kiểu còn ở đường Đề Thám, một cửa tiệm bán nước mắm, gần nhà của dân biểu Hồ Ngọc Cứ và GS Phan Quang Bổng, là hai người bạn  rất thân của tôi. Dãy phố lầu này đâm thẳng ra đường Phạm Ngũ Lão, bên hông xóm Sáu Lèo... (muốn biết rõ chi tiết xin đọc bộ Bí Mật Hậu Trường Chánh Trị miền Nam, gồm 3 quyển, của Đặng Văn Nhâm, đã phát hành khắp nơi).

Chuyện này tôi sẽ trở lại một cách đầy đủ chi tiết hơn trong một chương sau.

 

SỰ MẤT MIỀN NAM  KHÔNG THỂ COI NHƯ TẤT YẾU VÀ NGƯỜI QUỐC GIA LÀ AI?    

Theo tôi, cũng như đại đa số quần chúng thầm lặng VN, sự mất miền Nam hoàn toàn không tất yếu một chút nào, và người quốc gia lúc nào cũng vẫn có một chỗ đứng. Nhưng cái chỗ đứng ấy của người quốc gia chân chính - đáng tiếc thay! – đã bị các tướng lãnh, làm tay sai cho ngoại bang, dùng bạo lực võ khí tước đoạt mất. Nên nhớ: bọn độc tài, quân phiệt, hèn nhát, bất tài, tham nhũng, thối nát, buôn lậu bạch phiến, đầu cơ phân bón, gạo, ăn chận lương và khẩu phần lính, mua quan bán chức, bọn chính khách đảng phái sôi thịt, bọn lưu manh đội lốt tu hành... không thể được coi như “Người quốc gia”!

Tập đoàn quân phiệt cầm quyền này chẳng những nằm vùng, đâm sau lưng đồng đội, lại còn cấu kết với bọn chánh trị gia sôi thịt, con buôn chiến tranh, và bọn ký sinh trùng giả dạng tu hành... để dành độc quyền chống Cộng với người Mỹ. Nên nhớ: Bọn chính trị gia xôi thịt, trí thức ươn hèn, tu hành lưu manh... cũng không thể “đồng hoá” trong danh từ “người quốc gia” được!

Nên biết: Dưới thời đệ nhất CH, dù thế nào chăng nữa vẫn không một ai có thể nói  như ông Ngân là: “Sự mất miền Nam tất yếu phải xảy ra”. Chỉ vì lý do rất đơn giản là: Lúc bấy giờ, dưới chế độ NĐ Diệm, ít ra “người quốc gia” vẫn còn có “chỗ đứng” trong chiến tuyến chống Cộng!

Nhìn rộng ra ngoại bang, các nước Trung Hoa, Đại Hàn, Yemen và Đức Quốc... cho đến nay vẫn không ai nhìn thấy vấn đề mất vào tay CS là tất yếu, như ông Ngân đã nói. Ngược lại, các nước Nam Hàn, Đài Loan, Nam Yemen và Tây Đức... ngày càng trở nên phú cường và bền vững, xứng đáng hãnh diện góp mặt với năm châu bốn biển. Riêng người Trung Hoa “Quốc Gia” sau khi đã rời bỏ Trung Hoa lục điạ, năm 1949, đã xây dựng được hòn đảo nhỏ bé Đài Loan trở nên một quốc gia phú cường, nổi danh là một con rồng  kinh tế Á Châu, đồng thời cũng là một tiền đồn có khả năng ngăn ngừa hữu hiệu làn sóng đỏ từ Trung Cộng tràn ra ngoài vùng biển Thái Bình Dương. Tại sao và nhờ đâu? Chỉ bởi tại những nước đó đã không có bọn tướng lãnh ươn hèn, bất tài, tham nhũng cùng với lũ tay sai ngu dốt  xu nịnh làm phụ tá !...

 

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THDQ VÀ VNCH, GIỮA TƯỞNG GIỚI THẠCH VỚI N.V.THIỆU, GIỮA QUÂN ĐỘI TÀU PHÙ VỚI QUÂN ĐỘI VNCH.

Mặt khác, khi viện dẫn tệ trạng tham nhũng của các giới chức cầm quyền Trung Hoa Dân Quốc, dưới quyền lãnh đạo của Thống Chế Tưởng Giới Thạch, đã đánh mất cả một lục điạ bao la với ngót một tỉ dân số vào tay CS năm 1949, ông Ngân đã coi như một bằng chứng, để biện minh và chạy tội làm mất miền Nam vào tay CSBV, năm 1975, của Nguyễn Văn Thiệu.

Đọc sự so sánh này của ông Ngân, chỉ cần tinh ý một chút người đọc cũng thừa khả năng nhận ra ngay trình độ hiểu biết về chính trị và thời cuộc thế giới cận đại của ông Ngân còn rất thô sơ và thiển cận. Có thể lúc bấy giờ, năm 1949, ông Ngân còn là một chú bé thò lò mũi xanh (ông Ngân sanh năm 1935, tức mới 14 tuổi!), sống chui rúc trong một vùng đồng quê hẻo lánh, thiếu ánh sáng văn minh nào đó, nên đã không được giáo dục đầy đủ. Cũng có thể, đến năm 1955, ông Ngân đã lội sông Bến Hải, vượt tuyến vào Nam (theo tiểu sử ghi trên bài phỏng vấn), vì mảng lo sinh kế, nên ông đã không đủ thì giờ, không  đủ khả năng  ngôn ngữ để tự trau dồi thêm kiến thức tổng quát qua sách báo Tây Phương. Vì  lẽ đó mà ông Ngân đã chỉ có được một cái vốn hiểu biết hết sức nông cạn ”thiên bất chí, điạ bất đáo”, để mà dại dột so sánh   giữa hai trường hợp: Trung Hoa Dân Quốc với VNCH và giữa Tưởng Giới Thạch với Nguyễn Văn Thiệu!

Ông Ngân nên biết rằng: Trước năm 1949, tình hình kinh tế, chính trị và quân sự của nước láng giềng Trung Hoa Dân Quốc (từ đây viết tắt: THDQ) khác hẳn với VNCH trước năm 1975. Tệ trạng tham nhũng thối nát trong hàng ngũ các giới chức cầm quyền TH quốc gia cũng hoàn toàn khác với nạn tham nhũng thối nát đã diễn ra từ thời tướng Thiệu lên cầm quyển chủ tịch UyÛ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia rồi đến làm tổng thống ở miền Nam VN (1965-1975).

Riêng cá nhân Tưởng Giới Thạch và Nguyễn Văn Thiệu lại càng khác xa nhau lắm lắm. Nếu tôi có thể ví Tưởng Giới Thạch là con Phượng Hoàng [chẳng khác TT Ngô Đình Diệm], thì Nguyễn Văn Thiệu chỉ là một con quạ đen điu, xấu xí với cái mỏ xần xùi thô kệch và tiếng kêu quái đản tới mức bay đến đâu, dân nhà quê cũng phải dùng  gạch, đất ném, để xua đuổi!

Đây là một chút sử liệu của THDQ sưu tầm từ các sách báo cũ, xin nêu lên để ông phụ tá Ngân suy ngẫm xem những lời phê bình sau đây có xác đáng không :

Chiến tranh Trung-Nhật đã bùng nổ ngày 7.7.1937, nhân vụ Lư Cầu Kiều.  Hai tháng sau, trước kẻ thù chung đang xâm lăng đất nước, 2 phe Quốc Gia và CS Tàu  đã tạm gạt bỏ mọi hiềm khích, hợp tác với nhau để chống Nhật. Ngày  14.8. 45 Nhật đầu hàng đồng minh. Ngày 9.9.45, Nhật đầu hàng THDQ vô điều kiện. Mới hết chiến tranh với Nhật, chưa kịp kiến thiết đã bị CS trở mặt tấn công và đất nước lâm vào cảnh nội chiến. Vì thế ngân sách quốc gia của THDQ bị thiếu hụt nặng. Năm 1947, ngân sách hụt 95.000 tỉ Hoa Kim. Vì phải trang trải đến 78% vào chiến phí và quân phí. Do đó chánh phủ THDQ đã phải tăng thuế và lạm phát phi mã tiền tệ.

Đồng tiền bị mất giá  nhanh chóng khủng khiếp, như người bị xuất huyết. Giữa năm 1945,  giá một Mỹ Kim là: 2.500 Hoa Kim. Đến tháng 2.1948, 1 MK ăn: 200.000 Hoa Kim. Đến năm 1949, trước khi Tưởng Giới Thạch phải rời bỏ Hoa Lục, tình hình kinh tế nước Tàu càng bi đát hơn, giá 1 MK ăn hơn một triệu Hoa Kim. Các bà nội trợ phải vác cả bao bố bạc đi chợ. Muốn mua một quả trứng gà, họ phải  bưng cả thúng bạc đi trả. Không ai  có thể đếm nổi tiền, chỉ nhắm chừng mà bốc ra từng bó, hốt ra từng nắm. Chẳng khác nào thời kỳ nước Đức, trước khi đảng quốc xã của Hitler lên cầm quyền. Người dân TH lúc bấy giờ đã nói : “Giá trị đồng Hoa Kim như...cứt. Và cứt ở TH cũng đổi lấy được đồng Hoa Kim!”

Trong thời gian này, cảnh đói rách khốn khổ đã diễn ra khắp nước TH. Nên nhớ, năm 1945, khi đạo quân Tàu Phù của các tướng Tiêu Văn và Lư Hán kéo sang miền Bắc VN để giải giới quân đội Nhật, người lính Tàu đã là hiện thân của những con ma đói thảm hại. Hình dáng gầy còm, rách rưới, tiều tụy, thường kéo nhau từng bầy xông vào các chợ vùng quê bốc hốt những mẹt bún, đậu phụ ăn lấy no, mặc tình cho những người đàn bà bán hàng tiếc của vác đòn gánh, gậy gộc đánh đập túi bụi. Nhiều tên lính Tàu Phù đã liều mạng ăn cho no, để rồi bị đập chết nằm quay lơ giữa chợ, đôi mắt trợn trắng, mồm còn ngậm đầy bún hay xôi...

Hình ảnh thê thảm khủng khiếp ấy của người lính Tàu năm 1945 sang VN đã như thế, đến năm 1949 càng thảm hại hơn, nhưng chắc chắn vẫn không phải là hình ảnh có thể đem ra so sánh được với binh sĩ VNCH trong thời kỳ tướng Thiệu và tập đoàn quân phiệt lên cầm quyền ở miền Nam. Trong khỏang thời gian trước năm 1975, người lính VNCH vẫn còn được người Mỹ viện trợ đầy đủ. Tuy họ đã bị đồng đội thượng cấp, giới chỉ huy phản bội, đâm sau lưng, và bị bóc lột đến tận cùng xương tủy, nhưng họ vẫn còn đủ ý chí và bụng vẫn còn no, đủ sức giữ vững tay súng để chiến đấu chống CS trên khắp các chiến trường tới giây phút cuối cùng, khi lệnh buông súng đầu hàng đã được đại tướng, tổng thống nằm vùng Dương Văn Minh ban ra.

Riêng về tệ nạn tham nhũng, thối nát, hèn nhát và bất tài của đám tướng lãnh cầm quyền cai trị tối cao của miền Nam VN, thì lại càng khác xa với tình trạng tham nhũng hối lộ của THDQ. Chẳng cứ gì toàn thể dân chúng, binh sĩ THDQ đều biết rõ nguồn gốc và thủ phạm của các vụ tham nhũng hối lộ, mà ngay cả các giới chức ngoại quốc, các đại diện báo chí Tây phương ở THDQ, đều biết đích xác những tay tham nhũng gộc trong guồng máy cao cấp cấp của chính quyền THDQ là: Khổng Tường Hi và Tống Tử Văn... Bao nhiêu tài sản đồ sộ và khối tiền rừng bạc bể đều tập trung hết vào tay mấy ông “Thần Taì” ấy cùng với đám tay chân bộ hạ, phe cánh của họ.

Nhưng ngược lại, riêng cá nhân TT Tưởng Giới Thạch và vợ là bà Tống Mỹ Linh vẫn đều được quần chúng kính trọng, và các giới chức cao cấp trong các chánh phủ Mỹ, Anh, Pháp v.v... ngưỡng mộ, trọng vọng, vì lòng ái quốc chân thành và đức tính liêm khiết. Ai cũng phải nhìn nhận tấm lòng yêu nước, thương dân, và đức tính liêm khiết của  TT Tưởng Giới Thạch và bà Tống Mỹ Linh. Nhưng, tội nghiệp, trong hoàn cảnh đó, ông chỉ là một cánh én cô độc không thể nào đem lại được mùa xuân có nắng ấm và hoa nở tốt tươi cho dân chúng Trung Hoa!

Dù sao, sau khi ra Đài Loan, TT Tưởng Giới Thạch cũng đã thực hiện được ước nguyện của ông, khiến cho tiểu đảo Đài Loan đã trở thành một quốc gia phú cường, thịnh vượng, nổi tiếng trong  vùng trời Đông Á!

Trong khi đó, ngược lại, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Thị Kim Anh lại khác hoàn toàn. Họ đã lợi dụng chức vụ nguyên thủ quốc gia và đệ nhất phu nhân để thực hiện  nhiều dịch vụ phi pháp như: trấn lột tiền bạc của Nguyễn Cao Thăng, tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức, chiếm đoạt công điền công thổ, mua chuộc dân biểu, nghị sĩ gia nô, dung túng bao che tội ác cho thân nhân, gia tộc, bọn tay chân bộ hạ để chia chác trong các dịch vụ: buôn bạch phiến, vàng, và thuốc phiện, đầu cơ phân bón, đầu cơ gạo, bán gạo, thuốc men vào mật khu cho VC... Chính những hành động MAFIA của Thiệu đã tạo nên tệ trạng “kiêu binh, kiêu tướng” lộng hành, coi thường luật pháp quốc gia, áp bức hãm hại dân chúng của một số tướng tá trong quân đội VNCH, mà ảnh hưởng còn kéo dài mãi đến nay ở hải ngoại vẫn chưa dứt. Bằng cớ điển hình mới nhất là vụ cựu trung tá TH Hội, anh em cột chèo của cựu tướng Huỳnh Văn Cao, tay chân của TT Thiệu, đã dám hành hung chủ báo Đại Chúng trong một tiệc cưới đông người ở ngay Maryland, kề cận thủ đô của nước Mỹ!

Tóm lại, tệ nạn tham nhũng dưới thời Thiệu là “nhà dột từ nóc dột xuống”; còn nạn tham nhũng của THDQ là chuyện ”nhà dột có nơi”. Khác nhau ở chỗ đó! [xin xem thêm  Bí mật Hậu Trường Chánh Trị miền Nam, gồm 3 quyển của tác giả Đặng Văn Nhâm, đã phát hành khắp mọi nơi].

Riêng trong phạm vi nội bộ quân đội, hay nói cách khác cho rõ ràng hơn là trong guồng máy quân đội của VNCH, khoảng từ 1973 đến 1975, thì  tệ nạn tham nhũng, thối nát có lẽ lại khá giống với tình trạng của quân đội Tàu Phù bên Trung Quốc.

Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1949, các báo chí TH thường đăng tin về vụ các tướng tá thường ăn chận lương lính, khẩu phần gạo của lính, tiền tử tuất và trợ cấp cô nhi quả phụ, tiền hối lộ, lính ma, lính kiểng, ăn cắp săng, dầu và  súng đạn bán cho CS Tàu. Ngoài ra, báo chí Tàu cũng còn thường xuyên đăng tin các tướng tá cao cấp, người nào cũng có năm thê bảy thiếp. Thậm chí có nhiều ông tướng tá còn dám đem cả gái điếm, gái ca nhe và bàn đèn thuốc phiện ra mặt trận để hưởng lạc thú thần tiên, đi mây về gió, bên cạnh những thân thể trần truồng nõn nà của giai nhân.

Về mặt phục dịch, các tướng lãnh trong quân đội Tàu Phù cũng bày ra thành hệ thống quân giai hẳn hoi. Các tướng có quyền bắt  các ông Tá phục dịch. Các ông Tá có quyền bắt các ông Uý làm tay sai. Các ông Uý có quyền dùng các thượng sĩ làm nô bộc. Các Thượng Sĩ có quyền bắt các chú Đội, chú Cai làm tôi mọi. Chót hết là các chú Đội, chú Cai cũng có quyền bắt các chú binh Nhè làm nô lệ không công!

Vì thế, hậu qủa cuối cùng là  quần chúng TH (năm 1949) cũng như quần chúng VN miền Nam (năm 1975) đã mất hết tin tưởng ở các cấp chính quyền; và binh sĩ Tàu Phù, cũng chẳng khác nào anh em binh sĩ VNCH đã mất hết tin tưởng nơi cấp chỉ huy...

 

NĂM 1975 MỸ BỎ RƠI MIỀN NAM CHẲNG KHÁC NÀO ĐÃ BỎ RƠI THDQ NĂM 1949!

Trước tình cảnh cực kỳ quẫn bách ấy, vào khoảng đầu năm 1949 TT Tưởng Giới Thạch đã cầu cứu với Mỹ, nhưng Mỹ đã làm ngơ, vì thấy phe mệnh danh “quốc gia” đã quá suy nhược và đã làm mất hết lòng dân. Con bịnh đã hết thuốc chữa. Tình thế đã vô phương cứu vãn !

Như thế, suy ra việc Mỹ bỏ rơi VNCH năm 1975 cũng chẳng khác nào họ đã bỏ rơi THDQ năm 1949 vậy. Đây mới đúng là điều tất yếu! Vì thế từ  năm 1975 đến nay không một ai trong hàng tướng lãnh thối nát cầm quyền cao cấp ở miền Nam VN có thể trách cứ hay đổ vạ cho người Mỹ được!

Từ  căn bản của các sự kiện vừa nêu trên, một người dân thường, có trình độ hiểu biết trung bình  đọc đến đây tất đã có thể nhận ra được lời cáo buộc của ông Ngân đổ lỗi cho Mỹ chỉ viện trợ cho VNCH nhằm mục đích làm cho miền Nam lệ thuộc vào Mỹ, và rồi cuối cùng, đến năm 1975, Mỹ đã rút quân và cắt giảm luôn nguồn viện trợ đó, khiến cho miền Nam VN bị mất vào tay CSBV là điều rất sai lầm, nặng tính chất ngụy biện.

Nghe lời cáo buộc ấu trĩ này của ông Ngân, chúng ta cứ tưởng đâu như lời của những kẻ phàm phu tục tử, thất học nào ngoài đường phố, hay lời chửi rủa vu vơ của bọn làm báo chợ hôi hám, bẩn thỉu ở khu Sài Gòn Nhỏ, chợ Bolsa, thủ đô tị nạn của người VN trên đất Mỹ!

 

DÙNG PHÁT XÍT ĐỂ CHỐNG C.S!

Trong câu trả lời này ông Ngân còn nói: “Muốn chống lại CS, miền Nam phải có một chế độ độc tài kiểu phát xít Hitler, mà CS Nga rất sợ...” (!)

(còn tiếp)

ĐẶNG VĂN NHÂM

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002