Đại Chúng số 90 - Ngày 15/1/2002

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới


VƯỜN THƠ XƯỚNG HỌA

HÀ THƯỢNG NHÂN Chăm Sóc

NIỀM RIÊNG MỘT NỖI

 

Muôn nỗi buồn vơi theo cốc rượu

Đêm tàn chuông vọng tiếng công phu

Ôi chao,chóng thật là năm tháng

Hờ hững trôi đi chẳng tạ từ

Không gửi sầu theo mây tám hướng

Ôm ghì cho nặng mối ưu tư !

Trăm năm một cõi đời mưa gió

Dâu bể đau lòng bút Tố Như

Lê trắng chưa phai màu Hạ trắng

Cúc vàng đã lại phả hơi Thu

Tiếc không giữ được vầng trăng mộng

Để khuất vào sương khói mịt mù

Tâm sự không vơi theo cốc rượu

Niềm riêng đành gửi bướm Trang Chu

Ngổn ngang trăm mối ta cùng bóng

Đừng để yêu thương hóa hận thù

Hãy đốt trầm lên xông phím lạnh

So dây mà gảy bản tương tư

Đàn ơi,rỉ máu năm đầu ngón

Tan nát lòng như khúc Sở từ !

Cung Diễm

BÀI HỌA

Đã lâu không được chung bầu rượu

Ngồi xổm như là lũ thất phu

Cười vỡ tiếng khà trừng mắt hỏi

Cần gì phải lựa tiếng ngôn từ?

Ta người có học đôi ba chữ

Có biết ngày xưa Ngũ Tử Tư

Chỉ mới một đêm đầu bạc trắng

Xưa nay câu chuyện vẫn y như

Trăng mùa năm ấy không còn nữa

Thơm ngát hương trà một sớm Thu

Bốn phía nhìn ra không thấy núi

Chỉ như dày đặc đám sương mù

Ta nghe Sống,Chết,Yêu,Thương,Giận

Ta nhớ ngày xưa gã họ Chu

Cây bút sắc như dao chém đá

Tay không mà chuốc mãi oan thù

Hỡi ơi ! Chu Tử người về đó

Một cõi chung buồn,một cõi tư

Rượu nếu như còn sao chẳng uống

Để nghe giọt lệ rớt từ từ...

Hà Thượng Nhân

 

THƠ THINH QUANG

Quỳnh Tương Tửu

Này chén Quỳnh Tương tạc ý chàng

Quạt ngà thiếp tặng buổi thiên quang.

Phượng hoàng đã chọn cành ngô đậu

Trâm ngọc vừa trao nghĩa đá vàng.

Tòng nhất nhi trung cho trọn đạo

Đồng thanh tương ứng vẹn niềm chung.

Cho hay rằng kiếp nhân duyên ấy

Kết tự ngàn xưa sợi chỉ hồng.

 

THƠ VICTOR HUGO

Nếu trong cổ thi Trung Quốc có những bài thơ lớn lừng danh kim cổ như bài "Tương Tiến Tửu" của Lý Bạch, "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu, hay "Tì Bà Hành" của Bạch Cư Dị...và Việt Nam có "Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du, "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trải...thì ở Pháp hồi thế kỷ XlX cũng có "Le Lac" của Lamartine; "La mort Du Loup" của Alfred De Vigny, và nhất là bài "Tristesse d'Olympio" sau đây của Victor Hugo, tiêu biểu cho thơ trường phải lãng mạn (école romantique).

Lời dịch giả LƯƠNG DUYÊN NAM

 

TRISTESSE D'OLYMPIO

Les champs n'étaient point noirs,les cieux n'étaient point mornes.

Non, le jour rayonnait dans un azur sans bornes

Sur laterre étendue

L'air était plein d'encens et les pré de verdures

Quand il revit ces lieux òu par tant de blessures

Son coeur s'est répandu!

 

NỖI BUỒN THI SĨ

Đồng chẳng đen,trời chẳng buồn

Không,không ngày vẫn sáng tuôn vô bờ

Bên trên dải đất trải xa

Khi thơm cỏ nội chan hòa nương xanh

Con tim rải mối u tình

Khi chàng thăm lại chốn mình thương đau !

LƯƠNG DUYÊN NAM

 

THƠ HUỲNH PHI AN SƠN

 

ĐI TRÊN LỐI CŨ

Tôi bước trên lối cũ

Mưa kỷ niệm rơi rơi

Lối xưa giờ lá phủ

Nhớ em nhiều, em ơi!

Đường xưa giờ còn đó

Mà em nay đâu rồi

Lối xưa giờ vắng gió

Chiếc lá buồn ngại rơi

Ông mặt trời mê ngủ

Trong chăn dày của mây

Đàn chim buồn ủ rủ

Chờ ai ở nơi này?

Tôi hỏi cây có thấy

Bóng hình em tôi đâu?

Cây ơi sao chẳng nói

Chỉ nhìn tôi lắc đầu

Tôi quay về hỏi lá

Lá giật mình vội rơi

Phủ dày thêm kỷ niệm

Cho lòng thêm chơi vơi

Tôi bước trên lối cũ

Mưa kỷ niệm giăng đầy

Con tim buồn không ngủ

Em ơi mau về đây.

Huỳnh Phi An Sơn (Virginia)

 

 

ĐÀN NGANG CUNG

TÚ LẮC Phụ Trách

SÁCH HỌA

GỬI SÀI MÔN LÝ THU

Lâu lắm không gặp Sài Môn họ Lý

Biền biệt đâu chẳng thấy tăm hơi

Nhớ sao là nhớ, Lý ơi

Vần thơ lục bát,chén mời hiên Tây

Thu xào xạc vàng bay trước cửa

Mùa trăng này thêm nữa, mấy trăng

Hỏi thăm mấy cánh thu vàng

Đi đâu mà chẳng nói năng một lời

Gió hiu hắt,Thu ơi ta nhắn

Bay về đâu "Mây Trắng Đầu Non"

Ta còn rượu Hạnh ba thôn

Ta còm đợi để Sài Môn say cùng

Vắng mặt ngọc rượu không muốn chuốc

Đường phố quen chân bước thẫn thờ

Đàn thông nghe gió so tơ

Vi vu gợi nhớ người thơ lạ thường

Đăm đăm mắt một phương trời nhớ

Mảnh tình thơ ai biết có không

Niềm riêng,riêng với tấc lòng

Thuyền thơ lại thả theo dòng sông trăng

Thiên Đường luật bâng khuâng khôn tỏ

Những mơ mòng ngọn gió mành tương

Giọng tình chén cúc đưa hương

Vần thơ lại ngậm ngùi thương cho tình

Thà nâng chén cao đình tương biệt

Thà chia tay bên Chiết liễu kiều

Để ta còn đứng trông theo

Bóng ai cùng với bóng chiều dần phai

Vườn thơ từ nhạt dấu hài

Thơ ơi."nhất phiến u hoài" buồn tênh !

Tú Lắc

ĐÁP HỌA

Xưa họ Lý trong vườn Đào Lý

Tình người xưa còn thấy hơi hơi

Vì thơ vì bạn,hỡi ơi

Thu về phương Bắc,người mời hướng Tây

Sực nghe gió thoảng bay rèm cửa

Còn ai đâu giờ nữa nhìn trăng

Bao la một cõi trăng vàng

Sao vì nhau chẳng nói năng nửa lời

Xa dường ấy tình ơi khó nhắn

Chỉ trùng trùng mây trắng sườn non

Ai về đứng giữa cô thôn

Vì ai thưa hộ Sài Môn cho cùng

Rượu còn đó chén không chẳng chuốc

Đường còn đây sóng bước thẫn thờ

Con tằm đã kiếp vương tơ

Nhớ ai như nhớ bạn thơ dị thường

Bốn phương góp một phương tưởng nhớ

Trời một phương ai có hay không

Tạ ai duy một tấm lòng

Buồn sao dễ gửi ngược giòng sóng trăng

Dưới ngọn nến bâng khuâng mờ tỏ

Tưởng từ đâu sóng gió sông Tương

Sông Tương lưu một làn hương

Hồ Xuân Hương trước đau thương vì tình

Ai ở chốn cung đình tống biệt

Để thiên ma bách chiết vì Kiều

Mình đi trăng dõi dõi theo

Bóng người thôi đã một chiều nhạt phai

Làn rêu còn đọng dấu hài

Làm sao cho nỗi cảm hoài nhẹ tênh!

Huệ Thu

 

CHIỀU THU CÔNG VIÊN

Công-viên rực buổi chiều thu

Lá vàng ngập lối nhẹ ru vào hồn

Nhìn trời bảng-lảng hoàng hôn

Ráng hồng chiếu gợn sắc vàng thu sang

Gió lay đưa nhẹ lá vàng

Bên đường xào xạc một đàn sóc xinh

Vàng oanh chim-chíp gợi tình

Đa-đa than thở phận mình ở xa

Mổi lần thương mẹ nhớ cha

Mùa thu gợi cảnh thương nhà nhớ quê

Nhớ xưa em đã ước thề

Mấy thu lá úa nhớ về cố-hương

Ôi ! phận bạc, ngã ba đường

Tình yêu nồng cháy vẫn nhường cho ai

Trách tôi không đủ sức, tài

Rước em về Thục như nàng Tôn Nhân (*)

Xưa, nay thay đổi bao lần

Tâm tình đoài đoạn, thế nhân bẽ-bàng

Dù cho thiếp chẳng phụ chàng

Nàng e miệng thế với ngàn khen chê

Lòng đau lệ nhỏ nảo nề

Thu vàng lá úa hiện về mổi năm

Thu sang rụng lá dâu tằm

Tằm trong cái kén, xuân mùa bướm hoa

Thu công viên vẫn hài hòa

Lòng ta mãi nặng tình ta yêu nàng.

Thương Việt Nhân

Mùa Thu năm 2001

* Tôn Phu Nhân Quy Thục: Lưu Bị rước em gái Tôn Quyền về đất Thục trong truyện Tam Quốc Chí

 

Thơ Việt Dương Nhân

 

LÀM SAO AN PHẬN...

"Thất Quốc sầu trôi theo vận nước,

Tha hương tủi nhục vướng nghiệp nhà".

(Lưu Vân)

Trong dạ tiệc nói cười ca hát,

Ngậm ngùi tìm giải thoát dân hiền

Dẫu rằng đang sống đất liền

Mà lòng thương nhớ triền miên dân mình.

Đất tạm dung đầy tình nhân đạo

Áo cơm lành gạo trắng cá tươi

Tự-do Dân-chủ quyền-người.

Làm sao an phận vui cười được đây?

Thương nhớ thương đọng đầy tâm não

Lòng căm thù "Chồn-cáo"ác gian

Làm cho Tộc Việt tóc tang

Nỡ nào nhắm mắt chẳng màn việc chi.

Thuở ra đi môi chì mặt nám

Mấy mươi năm sống bám quê người

Đất lành chim đậu ai ơi!

Nhưng lòng hãy nhớ khung trời quê hương.

Đang xẩy ra đau thương tràn ngập

Từ Chúa Giáo, đến Phật Pháp Tăng

Độc tài bạo lực hun hăng

Bỏ tù Linh Mục, đày hàng Chân Sư.

“Tư Bản Đo” khư khư khống chế

Buộc dân lành phải nễ "Đảng Ta"

Bảo là; phải hát phải ca:

Những lời của “Đảng đặt ra đúng đời”.

Thứ vô thần, chẳng Trời, Chúa, Phật

Cai trị dân theo lạc hậu xưa...

Trời ơiá! Ông hãy chuyển mưa

Sét lên đánh “Đảng Ta” chừa thói ngu.

Từ Nam-Bắc mây mù sẽ biến

Đến ngoài, trong thăng tiến phục hồi

Trăm năm duy vật đổi dời,

Duy Tâm mãi mãi sáng ngời chẳng phai.

Anh Hùng, tuổi trẻ chờ ai nữaá?

Mau đứng lên trị sửa ác quân.

Toàn dân chung sức họp cùng,

Dựng nền Dân-chủ khắp vùng Trời Nam.

(Paris 13ème, đêm 07-12-2001)

 

TỎ LÒNG BIẾT ƠN

Kính gởi đến Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn tại Pháp

“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây

Uống nước nhớ người đào giếng"

***

Từ ngày làm kẻ lưu vong,

Được Người giúp đỡ, lòng mong đáp đền.

Ơn Người chẳng một phút quên,

Giờ đây đến lúc phải đền đáp ngay.

Làm sao an hướng khoan thai,

Nỡ nào nhắm mắt không cay đắng lòngá?

Nhớ ngày trời biển mênh mong,

Vòng tay Người đón vào trong đất lành.

Hỡi ai còn nhớ việc trêná?

Cùng nhau đóng góp đáp đền nghĩa xưa.

Đất Pháp đang gặp gió mưa,

Thiên tai phủ xuống ruộng mùa nát tan.

Người dân buồn khổ gian nan,

Nước dâng lũ lụt, ngút ngàn oán than.

Để cho lòng nhẹ, tâm an,

Cộng Đồng Người Việt dựng màn Đới-Liên.

Nối vòng tay lớn khất quyên,

Tỏ lòng đền đáp Đất-Hiền dung thân.

(16 giờ 35, một xó an lành trên đất Pháp, ngày 25-04-2001.

“Nhân bản” đăng 5/2001)

Donnons-nous la main

(Tỏ lòng biết ơn)

Pour la Communauté les Vietnamiens Réfugiés en France

"Pour Qui mange le fruit de vie...

Qui est celui qui a plantéále verger?

Pour Qui boit lõeau vivifiante...

Qui est celui qui a creusé le puitsá?"

***

Depuis ce jour dõerrance sur les mers,

Recueillie par la bonté du samaritain

Quand pourrais-je répondre à ce bienfaitá?

Ce don de vie reste présent chaque instant,

Maintenant, vient le moment

Où le bienfait porte son fruitá!

Comment rester impassible dans le confort,

Dormir sans se retourner, sans peineá?

Oubliant ces jours dõerrance sans espoir,

Puis enfin cette joie, ces bras secourables Portant sur la terre bénieá!

Vous mes amis, souvenez-vous ená!

Ensemble unissons-nous pour répondre

Aujourdõhui à ce bienfait dõautrefoisá!

Le ciel injuste inonde plaines et villages,

Balayant maisons, travail et vie...

Semant peines et désespoirs pour tousá!

Allons mes amis, nous les réfugiés, les errants,

Vietnamiens de France et d’ailleurs,

A notre tour, donnons-nous la main,

Pour créer ce cercle de fraternité

Pour partager fardeaux et peines...

Ensemble soulageons les douleurs de ceux,

Qui ce jour, jadis avaient effacé nos larmesá!

(Interprèté et écit en francais par Marie-Colombe Bạch Thi Ngọc Sương. Tháng 5/2001)

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002