Đại Chúng số 91 - Ngày 1/2/2002

Duramax

Giới Thiệu
Sách Mới


Thơ Việt Dương Nhân

CHÂN LÝ

(Góp nhặt trong ba thi tập: "Bốn Phương Chìm Nổi"1998 đã hết, "Cát Bụi" và "Thoáng Qua" chưa in)

BẠT

Việt Dương Nhân, một hồn thơ nở hoa trên cát bụi

Hồ Trường An

Tôi quen Việt Dương Nhân từ năm 1977, khi tôi vừa định cư trên đất Pháp và bắt đầu trở lại nghề viết lách cho tới nay. Thuở đó cô say mê đeo đuổi theo nghệ thuật ca kịch cải lương. Cô lấy nghệ danh là Quốc Hương hợp cùng các nam nữ nghệ sĩ: Hữu Phước, Dũng Thanh Lâm, Minh Đức, Chí Tâm, Hương Lan, Phương Thanh, Mỹ Hòa, Kiều Lệ Mai, Hà Mỹ Liên, Kim chi, Lệ Hoa, Tài Lương, Minh Tâm, Hùng Tiến, Ngọc Lưu v.v... cùng những nhạc sĩ cổ nhạc: Michel Mỹ, Minh Thanh, Mai Thanh Hùng, Duy Đức v.v... thành một lực lượng hùng hậu.

Bạn bè trong giới văn nghệ thường gọi cô là Caroline, là Tuyết Hiver. Hiver là họ của chồng, còn cô họ Nguyễn, cô thuộc vào hàng thứ bảy trong gia đình.

Năm 1977, Việt Dương Nhân chỉ vào tam tuần. Cô không đẹp, nhưng dung nhan cô có nhiều nét thật đậm đà mà người Âu thường ưa chuộng: màu da sáng mịn và hồng hào chói lọi, lưỡng quyền hơi cao tạo cho gương mặt nét duyên dáng mặn mà, đôi môi đầy đặn và rõ nét, hai hàm răng khá đều đặn, nước men răng trắng bóng. Đáng kể là đôi mắt và giọng nói của cô. Đôi mắt có cái nhìn nung nấu và nồng nhiệt, làm người đối diện cô nghĩ rằng, người có đôi mắt ấy lúc nào cũng sẵn sàng lao tới lý tưởng, với ước vọng đam mê của mình. Giọng nói của cô khàn khàn và đặc sánh mật ong, tỏa ra cái âm vang dịu muốt như nhung mềm ở chót đuôi.

Thuở đó, Việt Dương Nhân ăn mặc giản dị, tóc chấm bờ vai, ít đeo nữ trang và cô tô son phấn thật gượng nhẹ, thật phơn phớt. Giữa tôi và cô quen biết thoáng qua.

Mới ra hải ngoại, tôi chưa cầm bút viết văn, hãy còn lận đận với nghề làm báo hơn viết báo. Cho nên công việc tôi rất phức tạp, rất rộn ràng. Còn Việt Dương Nhân thì say mê với nghệ thuật trình diễn. Nhà cô là nơi lui tới của các nghệ sĩ sân khấu, cô bung ra khỏi nếp sống thường nhật của gia đình để lao vào các cuộc lưu diễn thập phần hào hứng ở nhiều địa danh trên đất Pháp.

Mười sáu năm qua. Tôi đã bỏ nghề viết báo và bỏ nghề làm báo từ lâu. Tôi thiên cư về vùng Champagne cư ngụ.

Tôi hầu như lạc mất tin tức của Việt Dương Nhân. Vậy mà năm 1990, cô bắt liên lạc với tôi, gởi cho tôi bản thảo thi tập "Tứ Hướng Thăng Trầm” nhờ tôi cho ý kiến. Tôi nói với cô “Tứ Hướng Thăng Trầm” sao mà nghe nho quá. Cô hỏi tôi, lời rất chân thật: Bây giờ đổi tên gi? Tôi nói: thì "Bốn Phương Chìm Nổi". Cô kể lại cuộc đời trong mười mấy năm qua, biết bao là bất hạnh xẩy tới cho cô. Từ năm 1997, tôi và cô có nhiều dịp gặp nhau. Cô không già, răng cô vẫn đều như mười mấy năm về trước, có điều nước men răng phai bớt ánh sắc trân châu. Nhưng vóc mình cô vẫn thon gọn, vẫn mềm mại như cành lệ liễu, vẫn dẻo dai như nhánh thùy dương. Cặp mắt cô buồn quá đỗi, nụ cười cô lúc nào cũng man mác bâng khuâng.

"Tứ Hướng Thăng Trầm” được đổi lại là "Bốn Phương Chìm Nổi" và được trình làng vào mùa thu năm 1998 (năm Mậu Dần).

Trước năm cô ra mắt sách, chúng tôi thường gặp nhau ở nhiều nơi dễ thông cảm nhau hơn, thân mật nhau hơn. Chúng tôi gặp nhau vào một buổi tối ở quán Cây Cau với các nhà báo Tin Tức, với học giả Võ Thu tịnh, với họa sĩ Lê Tài Điển, với nhà thơ nữ Bích Xuân. Chúng tôi gặp nhau trong bữa ăn lễ Giáng Sinh tại quán Đào Viên với nhạc sĩ Xuân Vinh và ca sĩ Mỹ Hòa. Chúng tôi gặp nhau trong bữa tiệc đãi nhà văn nữ Trần Thị Nguyệt Hồng từ Việt Nam qua thăm. Hôm đó có Lê Tài Điển, có ông giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, có nam ca sĩ Thanh Hùng, có cây sáo Đoàn Văn Linh, có nữ diễn ngâm Ngọc Xuân, có nhà nữ điêu khắc gia Đặng Vũ Anh Trần, và có nhà thơ nữ Bích Xuân.

Và trong hôm Việt Dương Nhân ra mắt sách, rất nhiều nhà văn nhà báo, các chính khách đến tham dự. Riêng các văn nghệ sĩ gồm có: học giả Võ Thu Tịnh, nhà báo Tô Vũ, chủ bút báo Nhân Bản Phạm Dương Đức Tùng, nhà báo Trần Trung Quân v.v... các nhà thơ: Hoàng Minh Tâm, Vân Hải, Xuân Nương, Bích Xuân, Hoàng Dương, Cao Xuân Tứ, Đỗ Bình, v.v... Nữ ca sĩ Ngọc Hải, đôi uyên ương nghệ sĩ Minh Đức, Kiều Lệ Mai, và danh đờn cổ nhạc Minh Thanh. Hôm đó tôi được ban tổ chức mời lên diễn đàn bày tỏ cảm nghĩ của mình. Tôi nói rất ít, nhưng cô rất hài lòng. Trước khi cầm máy vi âm, tôi tặng cô bảy bông hồng màu gạch non, bó hoa thì nhỏ, đóa hoa chỉ lớn bằng trái chanh làm tôi hơi áy náy, hơi bứt rứt khi nhìn bó hoa to mà một văn nghệ sĩ tặng cô trước đó. Hôm ra mắt sách, Việt Dương Nhân tha thướt trong chiếc áo dài tím đậm nổi những cụm hoa kim tuyến lóng lánh, khoác khăn san như cuộn sương mỏng ở ngoài.

Sau buổi ra mắt sách, Việt Dương Nhân còn gặp tôi trong hôm nhà thơ nữ Dư Thị Diễm Buồn từ Hoa Kỳ qua Paris trình làng thi tập "Những Ngày Xưa Thân Ái" tại quán Cây Me. Hôm đó cô mặc Âu phục màu xanh lông chim anh vũ, khoác khăn sau, cô tô son màu hồng quế, đánh phấn màu hồng đào. Cô có dịp tâm sự với tôi nhiều hơn, mắt cô sáng ướt màn lệ mỏng. Cô uống rượu rất nhiều, hút thuốc liên miên. Đời cô buồn quá đỗi: Hôn nhân đổ vỡ. Bạn bè phản trắc. Một đứa con gái đang trong bệnh viện tâm thần. Đứa con trai yêu quý ở tận Hoa Kỳ. Người tình vì công việc làm ăn ở Lyon. Tối tối cô tìm cảnh quán khuya đèn muộn để uống rượu và tay châm điếu thuốc liên miên. Khi về tới nhà, cô loay hoay thao thức, có khi phải uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần.

Nhưng Việt Dương Nhân không già, không bệ rạc. Cô còn hai cái phao để nắm trong bể khổ chập chùng sóng cả nầy. Đó là niềm ngưỡng mộ ánh đạo vàng của đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Và kế đó là niềm yêu mến thi ca và công việc sáng tác của mình.

Song song với thi tập "Bốn Phương Chìm Nổi", bản thảo thi tập "Cát Bụi" được gởi tới cổ Nguyệt Đường của tôi vào 10 tháng 7 năm 1998. Cô nhờ tôi viết cho tập thơ hai của cô một cái Bạt.

"Cát Bụi" là một thi tập phản ảnh ít nhiều cuộc đời lẫn tâm sự của tác giả Việt Dương Nhân. Một tập thơ buồn, nhưng tác giả không thả nổi, không buông xuôi vào cái buồn chủ bại. Đâu đây vẫn còn lóe sáng ánh lửa tim yêu:

Anh nào thấu lòng này!

Phải chăng em đang say?

Rượu cạn rồi mấy chai?

Cháy bao nhiêu điếu thuốc?

Mà nỗi sầu chưa nguôi!

Trái tim trói buộc rồi

Chỉ hình bóng anh thôi.

(Trích trong bài "Ước Gì Có Anh")

Hoặc:

Một chàng Quân Tử giữa đời

Phun châu nhã ngọc tuyệt vời dìu đưa

Màn đêm giờ đã dần thưa

Bình minh ló dạng, nắng trưa lại về

( Trích trong bài "Tình Tri Kỷ")

Tác giả đã mất tình yêu, mất người chồng đã bao năm từng sống mặn nồng với cô. Nhưng định mệnh không dồn cô vào tuyệt lộ, cô còn tìm được một mối tình mới để nhìn cuộc đời bằng cặp mắt lạc quan. Đó là người đàn ông người Pháp rất ôn hòa, rất hào hiệp có thể làm bóng mát chở che cho cô.

Và Việt Dương Nhân vẫn còn tấm lòng yêu thương đối với Sài Gòn ngày cũ. Nơi đó dù là không phải nơi sinh quán của cô, nhưng là nơi cô từng sống hạnh phúc.

Đó là cõi thiên đường hạ giới mà cô luôn tâm niệm trở về:

Tim ta em chẳng lu mờ

Sài Gòn thương nhớ muôn đời mãi yêu

Ráng đợi ta nhé em yêu

Ngày về mình sẽ dắt dìu đường xưa.

(Trích trong bài (Yêu Mãi Sài Gòn)

Nhà thơ còn đã tìm thêm được lẽ sống khi chiêm ngưỡng ánh đạo vàng. Tôn giáo ở đây là điểm tựa tinh thần cho nhà thơ, một người đàn bà có trái tim mềm yếu và mẫn căm:

Ta đã chở thuyền sầu đầy ắp nập

Xác tâm nầy không còn chỗ nữa đâu

Lòng xoay chuyển, nguyện-cầu-an-nhân-thế

Dẹp sân si, tìm nhặt lấy Từ Bi

(Trích trong bài "Thuyền Sầu")

Lật từng trang giấy trong thi tập “Cát Bụi”, các bạn đọc giả có thể tưởng tượng được chăng ở đầu thành phố Ivry-sur-Seine, giữa vùng xanh tươi có những cây bạch dương, cây ngô đồng, cây hạnh đào, cây nhược liễu, cây thanh tùng, và trong một căn lầu buồn bã có một người thiếu phụ ôm một mối sầu da diết. Nàng đi đi về về lủi thủi chiếc bóng. Có nhiều đêm nàng nhìn vầng trăng treo nghiêng trên ngọn soan đào, để mà nhớ quê hương, để mà sầu dĩ vãng. Nàng vừa nhâm nhi cốc rượu, vừa hút điếu thuốc này sang điếu thuốc khác để tìm ý thơ và vần thơ. Ngón tay mềm mại nàng gõ nhẹ trên máy vi toán, rồi sau đó những câu thơ hiện ra trên màn ảnh của máy, phản ảnh nguyên vẹn tâm trạng của nàng như dòng sông Seine trong vắt vào mùa xuân in bóng nguyên vẹn thành phố Ivry-sur-Seine. Thỉnh thoảng nàng đốt một nén nhang bạch đàn hoặc nén nhang trầm hương trên bàn Phật rồi chiêm ngưỡng nụ cười phản ảnh nguyên vẹn tâm Từ Bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rồi mường tượng đến một cảnh giới giải thoát mọi trói buộc của phiền não mà trong kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa thường nói tới. Đó là cuộc sống của nhà thơ nữ Việt Dương Nhân, cô bạn văn chương hào hiệp và sầu mộng của tôi.

Chúc cô ngoài tôn giáo, ngoài tấm lòng đùm bọc của người tình mới, sẽ tìm được ở nghệ thuật sáng tác thi ca một điểm tựa vững chắc của tinh thần.

Cổ Nguyệt Đường, chớm Xuân Kỷ Mão (1999)

Hồ Trường An

 

VIỆT DƯƠNG NHÂN VÀ CÁT BỤI

Nguyễn Hữu Nhật

Sau tập thơ Bốn Phương Chìm Nổi, Việt Dương Nhân trong những nhà thơ ở Paris, với sức sáng tác sung mãn, lại gửi đến quý bạn thơ thi phẩm, Cát Bụi, đã nói lên được nhân sinh quan của Việt Dương Nhân về thân phận con người trong cuộc đời tạm bợ nầy, Cát Bụi gửi đến lời chúc tốt:

Mong cầu đây đó vui cười.

Đừng cho Cát Bụi... ngậm ngùi ngày mai.

Việt Dương Nhân coi thơ như vầng trăng, như ánh mặt trời và thơ còn là chiếc thuyền đưa những tâm hồn đau khổ, từ bờ bên nầy, sang qua bờ bên kia hạnh phúc. Thơ đã giải thoát cho chính tác giả khỏi những băn khoăn, phiền muộn một đời ray rức:

Không thắc mắc, không bồi hồi gì nữa.

Mà thấy nhẹ nhàng thanh thản... thôi.

Trong nỗi vui mừng tìm ra ý nghĩa tốt lành của đời sống riêng mình, Việt Dương Nhân hân hoan chia xẻ cùng mọi người:

Xin tặng cho đời... một vườn bông

Xin tặng cho đời... những nụ hồng

Xin tặng cho đời... hương thơm ngát

Xin tặng đời... lời hát êm trong...

Vườn hoa, nụ hồng, hương thơm và tiếng hát là những gì tượng trưng cho hạnh phúc con người mà Việt Dương Nhân, qua tập thơ Cát Bụi, muốn gửi tặng cho đời. Còn chính tác giả:

Cố quên bao chuyện âu sâu

Thả hồn theo gió hòa vào hư không.

Nổi âu sầu không chỉ một đời riêng tác giả mà nó giàn rộng ra, cùng khắp quê hương, nơi mà Việt Dương Nhân vẫn gắn bó:

Ai về quê Mẹ xin cho gởi,

Một khối tình thương rải khắp nơi.

Khát vọng thanh bình cho một quê hương từng binh lửa lâu dài, nồi da sáo thịt, củi đậu lại nấu đậu chỉ vì thứ học thuyết mang từ bên ngoài vào mà anh em trong nhà tương tàn. Tựa hồ như đồng ruộng quê nhà chỉ hợp với tiếng hò, lời ca vọng cổ, tâm hồn nông dân đất Việt chưa thấm được cái cuồng động của nhạc Rock Tây phương, Tâm hồn Việt Nam là "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn". Thứ học thuyết, giai cấp đấu tranh, gây oán chuốc thù chỉ càng làm cho đất nước suy yếu. Việt Dương Nhân lo lắng:

Một đời tâm trí chẳng an,

Khối sầu mãi đọng ngập tràn trong tim.

Nhà thơ sinh ra từ những mùa hoa đậu bắp ở Bình Chánh, Gia Định, những ngõ tre mát rượi ngày hè, những đêm trăng sáng ngó các ngọn dừa như đuôi chim công xòe ra trên nền trời đất bạc.

Việt Dương Nhân ra đời sớm, thân lập thân, sức mạnh duy nhất nơi tuổi thơ là tình cảm của một con người không chịu sống lệ thuộc vào người khác, Ba mất sớm. Mẹ có một đời cũng không vui. Người chị dâu khe khắt. Với một tuổi thơ không có tuổi thơ, Việt Dương Nhân rời nhà, xa ruộng đồng và lên tỉnh, Bây giờ nhớ lại lòng còn buồn bã:

Tay nâng ly rượu, rượu cũng hững hờ!

Hớp vô một ngụm, cay bờ môi thâm...

Sài Gòn, trong thơ Việt Dương Nhân, như lãng quên, như nhung nhớ, vì " Sài Gòn là nơi chôn nhao, cắt rún". Còn Paris, "còn Paris, con khôn lớn trên đời”. Gia Định, Sài Gòn và Paris, ba địa danh lớn lao trong đời nhà thơ. Từ một em bé gái mười hai tuổi rời nhà cho tới nay một thiếu phụ trên năm mươi vẫn xa nhà. Nhưng nhờ thấm thấu tinh thần nhà Phật, Việt Dương Nhân hiểu rằng "trong ba ngàn thế giới lớn, nơi đâu chẳng là nhà", nhưng ngôi nhà thời thơ ấu và tình thương Mẹ vẫn thường dậy lên trong lòng tác giả bao mối cảm hoài:

Dĩ vãng buồn!

Gởi lại đất Sài Gòn!

Dĩ vãng sầu!

Cất dấu ở Paris!

Một đời hai dĩ vãng,

Sẽ chôn nơi chốn nào?

Rún phải cắt, nhao có thể chôn, nhưng dĩ vãng dù buồn hay vui, người ta khó có thể chôn được nó, bởi vì nó là một phần của đời sống, hay chính nó kết lại thành đời sống. Việt Dương Nhân từng chôn chặt dĩ vãng ở trong lòng. Nó bật dậy, sống lại mạnh mẽ trong thơ, không ai chôn được dĩ vãng. Người ta biến nó thành một sức mạnh tâm hồn, đẹp như tình mẫu tử:

Căn phòng xưa cũ vẫn còn

Con về cho mẹ đở mòn xác tâm.

Người chối từ dĩ vãng cũng như một dân tộc chối từ lịch sử của mình? Việt Dương Nhân đi nhiều nơi trên thế giới và dù muốn hay không, tác giả của tập thơ Cát Bụi cũng là dân sống ở Paris lâu năm, những xa hoa cũng từng trải, nhà thơ vẫn tâm sự chân tình về một dĩ vãng nhiều thua thiệt, đau buồn của mình. Không một lời trách cứ. Bởi Việt Dương Nhân coi mỗi đời người như một cánh lá. Từ khi xuân xanh tới lúc thu vàng:

Nhìn qua song cửa buổi chiều nay

Thấy bao chiếc lá hững hờ bay

Trên cành rơi xuống, dường kinh hãi

Như sợ chân người dẫm nát... thay!

Khoảnh khắc thấy được cái ngắn ngủi của đời sống, nhà thơ hiểu ra lẽ đạo, mọi vui buồn trong đời không lớn lao như người ta tưởng, và dù cho có lớn lao đến đâu, những vui buồn ấy cũng nằm trong cái mỏng manh, qua đi rất nhanh:

Nhìn bầu trời xanh xanh.

Tiếng chim hót trên cành.

Mùa xuân đi qua nhanh.

Kiếp người sao mỏng manh!

Chỉ có thơ, thơ chôn đi được nỗi buồn và làm sống lại niềm vui, ngay trong lúc sáng tác, Việt Dương Nhân trở thành một người cầm bút không phải vì muốn đua chen chữ nghĩa với đời, mà vì chính trong lòng có bao nhiêu điều nếu không viết ra thì khổ lắm. Trước hết là nuối tiếc một thời đã qua:

Đêm khuya im vắng buồn tanh,

Mượn cây bút nhỏ dệt thành bài thơ.

Thẩn thờ hồn mộng, tâm mơ,

Phải chi trở lại tuổi thơ thuở nào...

Một tuổi thơ không quần áo đẹp, không đồ chơi, không đủ ăn và hơn thế nữa, không được vỗ về, an ủi. Tự kiếm sống bằng hai bàn tay trắng. Nụ hoa vươn lên. Rồi nở. Nở không vì mình mong muốn. Mối tình đầu đời lỡ dở với dư vị đắng cay:

Tội thân hoa

Không dám nói một lời

Phải chấp nhận

Vì đời cần sự sống.

Ước mơ của người con gái, thuở Việt Dương Nhân mái tóc chớm xanh, trong thanh bạch không mong giàu có, trong thất thế không trông địa vị, chỉ một lòng thao thức được trở thành:

Chẳng phải, vì một chút lợi danh.

Nó mơ, từ độ tóc còn xanh.

Mơ thành thi sĩ, hay văn sĩ,

Mà sự học hành, quá mỏng manh!

Bỏ học, đi làm, rồi vừa đi làm vừa đi học, trong hoàn cảnh nào cũng khó khăn. Cái khó khăn trước hết của một người có nhan sắc bị lưới đời vây bủa, cùng với trách nhiệm tự ràng buộc gánh vác, chia xẻ cùng những người thân yêu cơ cực, tất cả như một hàng rào ngáng đường tiến thân cho một thiếu nữ con nhà nghèo. Chúng ta trân trọng một tấm lòng thành thật:

Đời Kiều không nghĩa lý gì!

Còn em biết gọi là chi giữa đời?

Kiều, mười lăm năm chơi vơi.

Em, bốn mươi sáu năm đời khá lâu.

Người nào không yêu quý mẹ mình thật là một bất hạnh lớn lao. Do tình cảnh ngoài ý muốn, những năm nhà thơ bé bỏng, bà mẹ không được ở gần để che chở, chăm sóc khiến nhà thơ phải sống nay đây, mai đó vất vả vô cùng. Vậy mà Việt Dương Nhân vẫn một lòng yêu quý mẹ, biết ơn sinh thành của mẹ. Năm tháng làm mòn mỏi thể xác nhưng tâm hồn nhà thơ vẫn phơi phới, nồng ấm tình người muôn thuở:

Thân con như đã rã rời,

Mà lòng vẫn giữa như thời xuân xanh.

Thời của xuân xanh, thời của tình yêu mới lớn, thời của giọt sương cũng ra châu ngọc, thời của cánh cò trắng vút bay trên hàng dừa nước, những cánh đồng lúa vàng Bình Chánh từ ngã ba Phước Cơ về Hưng Long, những địa danh nổi tiếng thời chiến như Bà tà, Tân Nhựt, tân Kiên... Nơi mà:

Bao nhiêu chất chứa tình thương,

Thương về quê Mẹ vấn vương vạn sầu...

Phần đông người ta muốn thời gian đi chậm, đồng nghĩ với sự kéo dài đời sống, tại sao Việt Dương Nhân lại mong ước:

Ta muốn gào lên cho vỡ đất trời

Cho tan nát hết cõi đời nầy đây

Thời gian hỡi! sao cứ hững hờ bay

Hãy nhanh đi chớ, cho đời qua mau.

Câu trả lời thật giản dị, thời gian không phải là "đơn vị sống" ở kiếp nầy, bởi tình yêu theo Việt Dương Nhân, không tính bằng năm, bằng tháng, mà được tính bằng những kiếp người:

Xin hẹn kiếp sau ta sẽ nói,

Kiếp nầy đành gói trọn riêng thôi... !

Mười năm nhớ lại một người, của mùa thu cũ, nỗi nhớ khôn nguôi. Không nói ra được thì phải viết. Tình yêu là mâu thuẫn? Ngày mong qua mau. Nhưng đêm thì muốn chậm lại:

Đêm nay nhớ lại một người,

Của mùa thu cũ hơn mười năm qua.

Bởi vì đêm có những giấc mộng, trong giấc mộng người thường gặp người, khi mộng tàn canh, người tỉnh dậy cô đơn:

Chợt tỉnh rồi, ôm thương nhớ bơ vơ

Lòng nuối tiếc, muốn đêm dài muôn thuở!

Thơ Việt Dương Nhân, có nhiều chỗ như văn nói mộc mạc, thiếu chải chuốt, nhưng cũng nhờ thế mà tiếng lòng của nhà thơ có được ngôn ngữ riêng biệt, không bị ảnh hưởng tiếng nói của bất kỳ nhà thơ nào. Nó là tiếng kêu tụ nơi tâm hồn tác giả:

Nhờ gió làm ơn gặp một người

Nói rằng: ta đợi mỏi mòn hơi

Hãy về cho kịp, không ta chết

Xin giúp dùm ta nhé gió ơi!

Tình yêu, trong đời một người đàn bà, dù thuở xuân hay buổi tàn thu, bao giờ cũng là một ám ảnh khôn nguôi, người đàn bà có thể chịu sống thiếu thốn mọi thứ, chỉ trừ tình cảm:

Hồn ta như đã lâng lâng

Bỏ chăn gối lạnh một lần nữa đây!

Nhưng một người đàn bà biết suy nghĩ, như Việt Dương Nhân, hai lần khổ hơn so với những phụ nữ khác không bận lòng vì tình yêu quê hương. Quê hương làm động tâm nhà thơ không chỉ hình ảnh bà mẹ già ở quê nhà chờ mong con cháu về xum họp. Quê hương không chỉ là những trẻ thơ tan tác trong chiến tranh và trôi dạt thời hậu chiến. Nó còn là tiếng ca ai oán của làn hơi "vọng cổ hoài lang" của ông sáu Lầu. Nhớ chồng khi nghe tiếng trống. Tiếng trống đêm thời Pháp thuộc đưa những người yêu nước đi đày. Nhà thơ cho biết ông nội của mình là "thực dân" và người cha lại đi “kháng chiến” chống Pháp. Nghịch cảnh gia đình đó không làm giảm lòng gắn bó của Việt Dương Nhân với quê mẹ Việt Nam. Nhà thơ cảm ơn Paris, đất dung thân, nhưng biết ơn Sài Gòn và tạ ơn quê nhà Gia Định. Nhớ mãi từ bát canh chua cá Ngác, tới miếng dừa nước trong veo. Mùi rơm rạ sau mùa gặt. Đặc biệt là vọng cổ, một loại hình nghệ thuật dân gian, giọng sầu thảm, nhưng hơn bất kỳ thứ dân ca nào trên thế giới, bởi sau khi cất lên được tiếng than người ta thấy nhẹ lòng. Vọng cổ, bản chất là thơ, có thể dựng thành ca kịch với nhiều thể điệu khác nhau. Nhị hồ, tức đàn cò, một thứ vĩ cầm Đông phương dìu dặt. Phải là người miền Nam mới thấm thấu được cái hay của vọng cổ. Nó đặc biệt như cây đàn guitar phím trũng, chứa đầy những thanh âm:

Trưởng huynh ơi! Đời em là một cánh chim đơn, với cuộc sống thăng trầm gặp bao cơn giông tố, giờ đây em xin bỏ đời cát bụi, cặm cuội ngồi nhà mà cầu nguyện thế gian, và cầu cho Quốc Thái Dân An, mong đất Mẹ Việt Nam có một vầng trăng sáng, rồi đây với những tháng ngày Nắng-Mới, đàn chim Việt sẽ vỗ cánh bay về.

Vọng cổ, dưới ngòi bút Việt Dương Nhân, không hề ai oán. Thú vị vô cùng khi chúng ta hình dung, trên bờ sông Seine có một người phụ nữ phương Đông bề ngoài Tây hóa, mà trong lòng lại rất Việt Nam, vẫn âm thầm soạn các bài vọng cổ:

Lấy lửa công minh mà đốt quyền độc trị, cho nước Việt mình có Dân chủ Tự do, và nhà nhà được cơm no áo ấm, hưởng mọi quyền người như tất cả nhân sinh, hơn hai mươi ba năm chiến chinh đà nguội lạnh, mà sao còn nghi ngút lửa thù căm...

Việt Dương Nhân với tư cách nhà thơ hay soạn giả các bài ca vọng cổ, trước sau vẫn chỉ là người đa cảm, biết thương yêu và chia xẻ cùng thân thích, bạn bè, thương nhớ quê nhà và lòng cháy bỏng một niềm mơ ước chung cho cả dân tộc mình.

Hãy làm sao cho sáng ngời nước Việt, cho dân tộc mình một cuộc sống bình yên.

Nhưng ở đây, trong bài viết nhỏ nhoi nầy, tôi chỉ muốn nói tới một Việt Dương Nhân nhà thơ. Nhà thơ của Sài Gòn ba trăm tuổi 1668-1998, nơi mà nước mắt và tiếng cười của nhà thơ từng đổ ra, bật lên với bao kỷ niệm:

Yêu em từ thuở vào đời,

Khi cành hoa búp lả lơi gió chiều.

Áo dài tha thướt dập dìu,

Màu hoa cà tím mỹ miều nhởn nhơ.

Em là Gài Gòn, em là kỷ niệm, em là ngày sáng nắng bừng lên ở phía chân trời quê mẹ. Còn ta, Việt Dương Nhân, thường đêm thao thức nơi quê người, ngồi viết một mình, một bóng:

Ta còn ngồi viết mấy dòng,

Cho vơi đi bới nỗi lòng nầy đây!

Bạn đọc yêu thơ Việt Dương Nhân, qua Bốn Phương Chìm Nổi, còn tìm gặp được một tâm hồn sau bao đau thương vẫn:

Bây giờ còn mộng với mơ,

Dệt lên được mấy vầng thơ cuối đời.

Nhưng tới Cát Bụi, chúng ta chỉ thấy một Việt Dương Nhân thanh thản, không buồn vui, không mơ mộng, thoát ra khỏi được ảo ảnh “chấp ngãõ, vươn tới một không gian rộng lớn:

Cố gắng vượt qua lượn sóng đời,

Vượt luôn giông bão giữa trùng khơi

Thân còn hiện hữu trong trời đất,

Bốn bể lanh quanh thế mà thôi... !

Nếu không tự giải thoát được, theo Việt Dương Nhân, ngôi nhà cũng như cuộc đời, khi cuộc vui tàn, tiếng đàn, giọng hát lắng ngưng, những người khách xa dần rồi khuất hẳn, chỉ còn trơ lại chủ nhà với nỗi buồn nhiều hơn trước khi có cuộc vui:

Đêm nay nhà thật là vui,

Đàn ca ngân hát, ôi thôi tưng bừng.

Cuộc vui nào, khỏi tàn ngưng?

Mình ta còn lại, bỗng dưng thấy buồn.

Không chỉ cuộc tình, mà toàn bộ cuộc sống, tự thân nó đã là Cát Bụi. Anh và em, ở đây, như bản thể và tha nhân, mình và người, giữa nhà thơ và sự mơ mộng chỉ còn lại sự nhớ thương:

Tỉnh rồi, anh biến đi dâu?

Để em ở lại ôm sầu nhớ thương.

Nguyễn Hữu Nhật

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002