Đại Chúng số 99 - Ngày 1 tháng 6 năm 2002

Duramax

KHOA HOC VÀ Y KHOA

Hữu học sinh họ Vương ghi lại

1.- Bác sĩ Ykhoa Hoa Kỳ cương quyết dùng nhân bản con người trong việc nghiên cứu và chế tạo một hài nhi con người.

Bác sĩ Dr. Panayiotis Zavos, một trong những chuyên gia hàng đầu về công nghệ sinh học của Mỹ tuyên bố sẽ quyết tâm theo đuổi đến cùng việc nhân bản vô tính người. Phát biểu trước Tiểu ban Cải cách Chính phủ của Quốc hội Mỹ, ông nói: “Đây không phải là lúc để lo ngại và quay ngược trở lại đồng hồ. Tất cả đã sẵn sàng, phôi nhân bản đã ở trong phòng thí nghiệm, chỉ chờ để cấy vào người phụ nữ tình nguyện".

Bác sĩ Zavos cho biết, ông sẽ vẫn nhân bản người ngay cả khi các nhà lập pháp tìm mọi cách ngăn ngừa việc này. Ông còn cho hay hiện nay đã có 12 phụ nữ "ứng cử viên", trong đó có 5 người Mỹ và "những phần việc còn lại" sẽ tiến hành tại một trong hai trung tâm của ông ở ngoài nước Mỹ mà ông không tiết lộ.

Trong lần xuất hiện trước Quốc hội Mỹ cuối năm ngoái, bác sĩ Zavos đã ám chỉ ông sẽ tạo phôi thai nhân bản người trong vài tháng sau đó.

Hạ viện Mỹ năm ngoái đã thông qua đự luật cấm tất cả các hình thức nhân bản vố tính người. Tuy nhiên, hiện nay Thượng viện Mỹ đang cân nhắc hai khả năng hoặc cấm nhân bản người dưới mọi hình thức hoặc chỉ cho phép nhân bản phôi người cho mục đích nghiên cứu.

2.- Thuốc mới mở ra hướng chữa trị mới cho bệnh Alzheimer

Y khoa London va Alzheimer.

Các nhà khoa học cho biết, một loại thuộc mới làm giảm tỉ lệ protein trong cơ thể có thể mở ra một hướng điều trị mới, tốt hơn cho các bệnh nhân Alzeimer và những người mắc các bệnh rối loạn loại II khác.

Bệnh Alzheimer phát triển khi các protein kết hợp với nhau một cách không bình thường để tạo thành các chắt lắng tinh bột có hại cho các mô và các cơ quan khác nhau của cơ thể.

Sau khi nghiên cứu 100.000 hợp chất khác nhau, Giáo sư Mark Pepys và các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Y khoa Luân Đôn đã tìm ra một loại thuốc có tác dụng loại bỏ gần như hoàn toàn một loại protein gọi là SAP trong máu. Đây chính là các protein có xu hướng kết dính với nhau để tạo bột và có khả năng chống lại các cố gắng tự nhiên của cơ thể nhằm phân huỷ chúng.

Tiến hành thử nghiệm với 19 bệnh nhân khác nhau, những người mắc amyloidosis, một bệnh hiếm gặp do sự ngưng tụ của protein trong các bộ phận khác nhau của cơ thể, các nhà nghiên cứu nhận thấy loại thuốc mới đã loại bỏ hoàn toàn các protein và giảm các thành phần dạng tinh bột có khả năng gây bệnh khác.

Giáo sư Mark Pepys và các cộng sự của ông tin rằng thứ thuốc mới cũng có thể huỷ bỏ hoàn toàn các cặn lắng dạng tinh bột gây ra bệnh Alzeimer và các chứng bệnh rối loạn loại 2 của người già. Một ưu điểm khác của loại thuốc này là nó không gây bất kỳ tác dụng phụ nào. Tuy nhiên, hiện nay các nhà khoa học chưa thể khẳng định chắc chắn những chất lắng dạng tinh bột có phải là nguyên nhân trực tiếp làm huỷ hoại các tế bào não, gây mất trí ở người bệnh hay không.

3.- Cảnh báo về tác hại của hơi dung môi đối với não

Chất hơi (dung môi) kích thích mũi và não bộ.

Có một số người trong chúng ta rất thích ngửi mùi của những căn nhà mới sơn, lọ hồ dán, xăng, hơi ga bật lửa hay các dung môi khác, mà không biết rằng chúng cũng chạy tuột lên vùng não vốn chỉ tiếp nhận kích thích từ cocain hay các loại ma tuý khác.

“Đây là lần đầu tiên chúng tôi quan sát thấy hiện tượng này", ông Stephen Dewey, Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven, New York (Mỹ), trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết. Khi tiến hành chụp cắt lớp não, các nhà khoa học nhận thấy những hơi dung môi hữu cơ như toluen di chuyển rất nhanh tới trung tâm tạo khoái cảm, sau đó lan tới các tế bào não khác và phá huỷ chúng, khiến cho người hít phải mất trí nhớ, giảm thị lực và cuối cùng mắc các chứng tâm thần nghiêm trọng.

Theo cảnh báo của các nhà khoa học, đã đến lúc chúng ta phải quan tâm nghiêm túc tới việc sử dụng những dung môi bay hơi, bởi vì trẻ em rất thích ngửi chúng. Không giống như các loại thuốc phiện bị cấm, các dung môi bay hơi có ở khắp mọi nơi, trên sơn tường, hồ dán, đồ đạc mới... và bọn trẻ dễ dàng tiếp xúc với chúng.

4.- Hãy thận trọng khi sử dụng Chocolat quá mức mà cơ thể hấp thụ được .

Viện An toàn Môi trường Mỹ (AESI)- một tổ chức môi trường phi lợi nhuận (non-profit) của Mỹ chuyên điều tra các mối nguy hại đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, vừa ra thông báo cho biết sản phẩm sôcôla của một loạt công ty sản xuất sôcôla lớn có chứa các kim loại độc hại như chì và catmi gây hại cho sức khỏe của người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em.

Những công ty nằm trong đon AESI kiện lên Tòa án Los Angeles là Hershey Foods Corp., Kraft Foods Inc., Nestle USA Inc. (thuộc Nestle SA), Rocky Moutain Chocolate Factory Inc., Mars Inc. và Sees Candies Inc.. Theo thống kê sơ bộ, những công ty này hiện đang chi phối hơn 80% thị trường sôcôla của Mỹ.

Theo nguồn tin mới nhận được, Hiệp hội Các hãng Sản xuất Sôcôla (CMA) cũng vừa chính thức bác bỏ lời buộc tội này, cho nó là "không có cơ sở". Theo CMA, các nhà khoa học và bác sỹ thuộc Cơ quan Thực và Dược phẩm của Mỹ đã khẳng dịnh những sản phẩm sôcôla này là an toàn.

Thêm một thông tin nữa khiến chúng ta phải cẩn thận khi sử dụng sôcôla.

6.- Chị em sinh đôi tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư ngực .

Những phụ nữ sinh đôi chịu rủi ro mắc bệnh ung thư vú gấp ba lần so với những phụ nữ khác. K?t luận trên được đưa ra sau cuộc khảo sát 1.300 cặp chị em sinh đôi và 2.000 người không phải sinh đôi của Viện Nghiên cứu Ung thư ở London, Anh Quốc.

Trong công trình nghiên cứu của mình, các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Ung thư London khẳng định: Nếu một phụ nữ sinh đôi mắc bệnh, người còn lại sẽ chịu rủi ro rất cao. Chẳng hạn, nếu một người mắc bệnh vào năm 20 tuổi, người thứ ai sẽ mắc bệnh trong vòng 20 năm kế tiếp.

Các nhà khoa học tin rằng phần lớn các trường hợp mắc bệnh ung thư là do rủi ro di truyền.

7.- Galile phát minh định luật rơi tự do vào năm nào?

Free Falling Body in vaccuum

Định luật rơi tự do của Galile, nói rằng các vật thể có khối lượng khác nhau rơi tự do với cùng một tốc độ trong trọng trường của Trái đất. Tất cả các học sinh phổ thông đều học về định luật này, song từ trước tới nay các nhà sử học luôn nghi ngờ, không biệt Galile đã phát minh vào thời gian nào vì các tài liệu nghiên cứu của nhà bác học về định luật này đều không ghi ngày tháng.

Tuy nhiên, với sự trợ giúp của các phân tích bằng X-quang của Viện Vật lý Hạt nhân Quốc gia, ở Florence, Mỹ về tỉ lệ của quặng, đồng, kẽm và chì trong loại mực mà Galile sử dụng, các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Tổng hợp Idiana của Mỹ đã xác định được chính xác thời gian Galile ghi chép các nghiên cứu của mình về định luật tơi tự do bằng cách so sánh tỉ lệ thành phần này với các vật mẫu khác.

Nghiên cứu cho thấy, loại mựưc Galile sử dụng để ghi công thức đầu tiên trong định luật của mình là loại mực thường được sử dụng trong các báo cáo tài chính năm 1604 của các nhà buôn Italia.

Bằng phương pháp này, các nhà lịch sử hy vọng có thể xếp đặt lại các phát minh của Galile vào đúng trật tự thời gian.

8.- Uống Trà (Tea) giúp bảo vệ và duy trì mật độ khoáng chất trong xương. Nhất là Trà Xanh (Green Tea)

Trong một nghiên cứu công bố ngày hôm qua, 12/5, các nhà khoa học Đài Loan cho biết thói quen uống chè trong nhiều năm sẽ giúp duy trì mật độ xương ở cả nam giới và phụ nữ.

Các tác giả, Chih-Hsing Wu và Chih-Jen Chang thuộc Đại học Y Cheng Kung ở Tainan, Đài Loan, viết: "Tác dụng bảo vệ của chè đối với mật độ khoáng chất trong xương trên toàn cơ thể, đặc biệt ở khu vực thắt lưng và hông, đã được chứng mưinh rõ ràng".

Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí của Hội Y tế Mỹ, tiến hành trên 479 đàn ông và 540 phụ nữ người Hoa. Tất cả những người được nghiên cứu đều đã có thói quen uống chè trên 30 năm.

Theo các nhà khoa học, hàm lượng flor cao trong chè, đặc biệt là chè xanh, cùng với các hương liệu và hormon phytoestrogen, giúp duy trì mật độ của xương. Bên cạnh đó, trong chè còn có nhiều hợp chất có tác dụng ngăn ngừa sự thoái hoá xương và bổ sung các vi lượng kim loại làm cho xương cứng và dai.

9.- Dùng dầu cá giảm nguy cơ đột tử . Cod Liver Oil (gọi là dầu cá Thu)

Ơ' những người mắc bệnh tim có dùng dầu cá bổ sung, nguy cơ đột tử bởi các nguyên nhân liên quan đến tim giảm 41% sau 3 tháng chữa trị và sau hơn 3 năm, nguy cơ này giảm 45%. Đó là kết quả một cuộc nghiên cứu kéo dài hơn 3 năm trên hơn 11.300 người, do các nhà khoa học Italia thực hiện. Tất cả những người này đều đã bị một cơn đau tim 3 tháng trước thời điểm bắt đầu nghiên cứu, hơn 1.000 người trong số này đã qua đời.

10.- Dùng nứơc đá và hơi lạnh đễ cúu bệnh nhân suy tim mạch.

Trong một cuộc nghiên cứu bên Âu Châu, các chuyên viên đã dùng nước đá và hơi lạnh để giảm bớt thân nhiệt các bịnh nhân bị suy tim. Cuộc nghiên cứu được thực hiện với 275 bịnh nhân ở 5 quốc gia ; trong đó thân nhiệt của bịnh nhân được giảm từ 37 độ bách phân xuống còn 34 độ trong vòng 24 giờ đồng hồ. Một cuộc nghiên cứu tương tự, được thực hiện với 77 bịnh nhân tại Melbourne bên Australia. Trong cả hai cuộc nghiên cứu, các chuyên viên khám phá ra rằng phân nửa số bịnh nhân mà cơ thể được làm lạnh bớt đã có được tình trạng mà các chuyên viên gọi là "thuận lợi": họ vẫn còn sống sau khi lên cơn đau tim và mức tác hại trên não bộ của họ ít hơn nhiều so với cái mức mà đáng lý ra họ phải bị; chưa kể có người còn không bị tác hại gì ở óc cả. GS Peter Safar tại trung tâm y khoa trường đại học Pittsburgh viết trong bài đăng trên tập san y học New England Journal Of Medicine rằng làm lạnh bất cứ cơ quan nào trong cơ thể cũng giảm bớt nhu cầu oxygen của cơ quan đó. Đây chính là một trong những lý do khiến phương thức nầy bảo toàn được cơ quan ấy và rồi giúp nó hoạt động lại. Nhưng theo lời BS Safar thì một lý do chính khiến giảm bớt thân nhiệt dường như đã chận đứng được mức tác hại ở óc khi tim ngưng đập là vì nó ngăn không cho tiết ra các hóa chất độc hại có khả năng hủy diệt các tế bào óc. BS Safar cho rằng y giới nên coi phương thức làm lạnh cơ thể là một phương thức tiêu chuẩn khi phải chữa trị khẩn cấp cho các bịnh nhân bị suy tim. Chuyển sang thứ bịnh mà từ ít lâu nay người Mỹ vẫn được cảnh cáo là cần phải hết sức dè chừng là bịnh ung thư da thì giới khoa học Mỹ vừa phát giác thêm một chi tiết lí thú nữa là thật ra thì nếu cơ thể có thể hấp thu được một chút nắng thì chẳng những không có hại gì cho da mà còn có thể giảm bớt nguy cơ bị ung thư, hoặc bị vài bịnh khác nữa. Tín điệp vừa ghi được đưa ra trong cuộc họp hàng năm của Hiệp Hội Thăng Tiến Khoa Học Mỹ diễn ra tại Boston tháng trước. BS Michael Holick ở trường đại học Boston cho rằng loài người chúng ta tiến hóa trong nắng và vì thể mà có lẽ nắng là thứ tối quan trọng đối với sức khỏe của chúng ta. Theo ông thì ít phơi nắng quá khiến da không sản sinh đủ sinh tố Đ. Và một khi thiếu sinh tố Đ thì chúng ta có thể bị còi xương hoặc loãng xương. Một cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy trẻ thơ nào không uống đủ sinh tố Đ trong giai đoạn đầu đời đều dễ bị tiểu đường hơn những trẻ uống đủ sinh tố Đ. Theo BS Holick thì thiếu sinh tố Đ cũng gia tăng nguy cơ bị ung thư - tức là bịnh do tế bào sinh sản hỗn loạn và biến thành u ung thư. BS Holick nói thêm là hầu như mọi tế bào trong cơ thể chúng ta đều có khả năng khởi động sinh tố Đ. Chính loại sinh tố Đ được khởi động nầy chẳng những có thể điều hòa calcium và bảo đảm mức phát triển bình thường của xương; nó còn có khả năng ra lịnh cho các tế bào để các tế bào đó ngưng sinh sản nữa. Chúng tôi tin rằng đây có thể là cơ chế chủ yếu liên hệ đến nguy cơ chết vì ung thư. Nguy cơ nầy càng ngày càng tăng cao do thiếu sinh tố Đ mà ra. Những gì vừa được tìm thấy có thể giải thích được tại sao người sống trong những vùng lạnh thuộc bắc bán cầu có nguy cơ chết vì ung thư cao hơn. Một nhà nghiên cứu độc lập, BS William Grant, so sánh số người chết vì ung thư tại Mỹ từ năm 1970 tới 1994 với các dữ kiện ghi nhận mức phóng xạ tử ngoại loại B xuất phát từ mặt trời và thấy rằng tại những khu vực ít nắng, số người bị ung thư vú, ung thư ruột, ung thư tuyến tiền liệt và lối 10 loại ung thư khác cao hơn. Trong số những người chết vì ung thư tại Mỹ thì người Mỹ gốc Phi Châu chiếm tỉ lệ cao nhất. Nhà nghiên cứu Nina Jablonski thuộc Hàn Lâm Viện Khoa Học California gợi ý là nguyên nhân có thể là vì da họ sậm : sắc tố trong da của họ có khả năng tự nhiên ngăn chận phần lớn các tia phóng xạ mặt trời. Theo bà thì trong dòng tiến hóa, da sậm phát triển khả năng bảo vệ người sống trong những khu vực nhiệt đới có quá nhiều nắng, và do vậy mà có mức phóng xạ cao. Nhưng nếu sống trong những vùng ít nắng hơn thì cái lợi đối với những người đó không còn nữa. Bà Jablonski nói rằng tình trạng thiếu sinh tố Đ được ghi nhận ngay trong những vùng đầy nắng bên Phi Châu và Trung Đông khi người dân tại những vùng đó sống trong nhà nhiều hơn, hoặc che đậy cơ thể họ kỹ hơn hồi trước. Bà chỉ rõ cho thấy rằng khi xét qua lịch sử thì chúng ta sẽ nhận ra là chính vì cần có sinh tố Đ mà loài người đã không di cư về những miền đất phía bắc vĩ độ 50 cho đến lúc loài người phát triển được các kĩ thuật đánh bắt cá và khai thác được các thứ thức ăn giàu sinh tố Đ. BS Michael Holick ở Boston nói rằng nguồn sinh tố Đ tốt nhất là mặt trời bởi vì sinh tố Đ sản sinh trong da sẽ đi thẳng vào máu thay vì đi ngang hệ tiêu hóa và cung ứng nhiều sinh tố Đ hơn là bất cứ thức ăn hay thuốc bổ nào. Oâng đề nghị những người da nhạt sống ở các khu vực phía bắc phơi mặt và tay ra nắng 3 lần mỗi tuần trước khi thoa kem chống nắng. Những người da sậm thì cần một lượng nắng nhiều gấp từ 10 đến 20 lần hơn thế.

11.- Thái Lan và bệnh sốt xuất huyết đang lan tràn khắp nơi.

Bộ y tế Thái Lan đã cảnh cáo là chứng bệnh sốt xuất huyết DENGUE do muỗi lây truyền có thể khiến tới 200 ngàn người mắc bệnh trong năm nay, cao gấp đôi con số năm ngoái. Bộ trưởng y tế Sudarat Keyuraphan cho biết con số các trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết dengue năm nay cao hơn ở tất cả khu vực trong nước, với các trường hợp phát bệnh sớm hơn thường lệ. Bệnh sốt xuất huyết dengue chưa tìm ra được phương cách chữa khỏi, làm người bệnh nhức đầu, nôn mửa và đau các bắp thịt và khớp xương. Nếu không được điều trị, người ta có thể chết vì đau đớn. 14 người tại Thái Lan đã thiệt mạng vì chứng bệnh này trong vòng 3 tháng đầu năm nay.

         


 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002