|
MỘT NGHÌN LẺMỘT CHUYỆN NHỚ
QUÊN
BLACK BOX LÀ GÌ?SỰ AN TOÀN MÁY BAY RA
SAO?
NẮNG THÔN ĐOÀI
(Tiếp theo)
SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ
ÂM NHẠC TỪ NHỮNG NGƯỜI BẤT TƯ
của Rosemary Brown
Nguyễn Hữu Hiệu dịch
(tiếp theo kỳ trước
MẤY THẰNG
BẠN CỦA TÔI
DINH
DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH VIÊM GAN
VIỆT NAM VĂN HÓA
SỬ CƯƠNG
TRÊN ĐƯỜNG ĐI TÌMCHỮ VIỆT CỔ
|
|
VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG TRÊN ĐƯỜNG ĐI
TÌM
CHỮ VIỆTCỔ
THINH QUANG
Thường muốn biết về nền văn minh trong thời kỳ lịch sử qua hình thành một đất
nước có hệ thống guồng máy cai trị, các nhà biên khảo cần tra khảo về chữ viết
và xuất xứ của nó. Điềumà các nhà biên khảo đặt nghi vấn về các loại chữ viết
củacác quốc gia vùng Đông Nam Á có chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa hay
Ấn Độ hay không? Riêng về đất nước ta căn cứ vào một số các tài liệu được lưu
trữ thì dân tộc Việt quả có một loại chữ xuất hiện từ lâu đời, chính loại chữ
này đã chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.
Ông Trần Bích San đã có lần đưa ra vấn đề về "Chữ Việt Cổ "(31-10-1994) qua các
sách vở của các nhà học giả cũng như các nhà biên khảo đã in thành sách như
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu hay Hạo Nhiên Nghiêm Toản trong
Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu, hoặc Trọng Miên trong Văn Học Toàn Thư v.v...đưa
ra hai khuynh hướng trái ngược nhau như một đoạn bên dưới đây:
KHÔNG CÓ CHỮ VIỆT CỔ
Vua Hùng Vương đi đánh miền nam đến cửa Thần Phù,tức là đến Thanh Hóa nơi gốc cũ
thuyền bị gió cản không đi được,sau có một đạo sĩ xưng là La Viện xin cỡi thuyền
đi trước dẫn đường để tam quan đi sau, tự nhiên không có sóng gió gì nữa. Khi
tấu khải trở về,La Viên mất, vua truy phong là Áp Lãng Chân Nhân,lập đền ở bờ
sông để thờ. Lại cũng theo rtục truyền, khi vua Hùng Vương nam chinh đóng quân ở
núi Khả Lao (Thanh Hóa),nằm mơ thấy thần bảo rằng:"Xin có cái trống đồng và dùi
đồng giúp nhà vua thắng trận". Đến lúc ra trận thấy trên không văng vẳng tiếng
trống đồng rồi quả nhiên được toàn thắng. Vua bèn sắc phong thần núi xã Đam Mê
là Đồng Cổ Thần Từ (hiên nay trong đền vẫn còn một cái trống đồng cổ). Lê Văn
Siêu dẫn đoạn sử trên rồi chú thích"Xin lưu ý hồi này chữ Hán chưa được truyền
vào Giao Chỉ làm sao vua Hùng có thể có chữ phong cho thần là Áp Lãng Chân Nhân
với Đồng Cổ Đại Vương? Việc đi dánh miền Nam có thể có thực, nhưng đặt duệ hiệu
theo những tiếng nôm nào đó,còn sự phong tặng chỉ là những thêm thắt của đời
sau"(Việt Nam Van Minh Sử Cương,trang 68). Như thế tác giả Lê Văn Siêu đã gián
tiếp khẳng định nước ta chưa có chữ viết vào thời Hùng
Vương. Một số nhà nghiên cứu sau này tuy có thận trọng hơn, nhưng vẫn chưa đưa
ra được bằng chứng rõ rệt nào. Tô Minh Châu thiếu cơ sở khoa học chắc chắn để
chứng minh về đời Hùng Vương nước ta đã có văn tự Hùng Vương Dựng Nước,tập
3,trangh 297). Phạm Thế Ngũ lập luận "trước thời Bắc thuộc, trước khi tiếp xúc
với người Tàu và biết thứ chữ Hán của họ, dân tộc ta phải đã cómột thứ chữ riêng
để ghi tả tiếng nói của mình...có chăng thì thứ chữ tối cổ đó hẳn cũng rất thô
sơ xét theo trình độ văn hóa của mình khi ấy. Và đến thời dân ta thuộc nước Tàu,
vì thế lực đô hộ của người Tàu, vì trình độ cao đạt của Hánh học, những phần tử
trí thức người mình đã để nó mai một trong khi chạy theo học chữ của người Tàu"
(Việt Nam Văn Hóa Sử Giản Ước Tân Biên, quyển 2, trang 20). Gần đây,triết gia
Kim Định với triết thuyết Việt Nho đi xa hơn,cả quyết Việt Nam có văn tự trước
cả Trung Hoa."Không thể thấy
vắng bóng chữ viết trên trống đồng mà cho rằng Lạc Việt chưa có chữ. Không viết
vì chưa hình thành xong, hoặc tại lý do hay tin tưởng nào đó, chẳng hạn tin rằng
đồ xài lâu năm có hơo hướng người chủ dính dáng chầy ngày sẽ thành ma quỉ phá
phách người sống nên không dám viết chữ , chính vì thế đồ sứ xưa không hề có
chữ". Căn cứ vào đoạn sử ghi việc Việt Thường cống vua Nghiêu con rùa trên lừng
có viết cổ tự hình con nòng nọc,Kim Định kết luận "Lạc Việt đã có công đầu trong
việc đặt
nền tảng cả cho chữ viết và để ghi công đầu đo, tổ tiên đã đặt danh hiệu nước là
Văn Lang. Đặt danh hiệu đó để nhớ bước đầu nhưng vẫn tiến và đã tới đợt Tự
(Thanh) nhưng chưa kịp tiến sang đợt Thư thì bị nạn xâm lăng,đành bỏ dở việc
kiến tạo lại cho người xâm lăng tiếp nối" (thoạt kỳ thủy chữ dựa trên hình sự
vật gọi là Văn, sau dần dần thêm âm gọi là Tự. Từ đó hình và âm nương nhau đẻ ra
nhiều chữ và viết trên thẻ tre hoặc
lụa gọi là Thư) Nguồn Gốc văn Hóa Việt Nam, trang 122,123).Hà Văn Tấn nói về các
dấu vết về cổ văn tự tìm thấy trên các đồ đồng Đông Sơn với một số các hình nét
mà ông cho có thể là chữ. Trên những lưỡi cày và khí giới (cái qua) tìm được ở
Thanh Hóa, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy một số dấu hiệu có tính cch qui ước mà
theo Hà Văn Tấn thì những chữ này tương tự như chữ khắc trên chiếc qua tìm thấy
ở tỉnh Hồ Nam
(Nghiên Cứu Lịch Sử, 112).
Đặc biệt hơn cả , Nguyễn Khắc Ngữ đưa ra được nhiều chứng liệu về chữ Việt cổ.
Mở đầu phần "Đi Tìn Chữ Việt Của Người Việt", tác giả ghi lại những lời chú
trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán triều Nguyễn".Dựa
theo sách Thông Chí của Trịnh Tiều và sách Cương Mục Tiền Biên của Lý Kim Tường
thì đời Đào Đường (2357-2248 TTL) ở phương Nam có họ Việt Thường qua hai lần sứ
dịch sang chầu dâng rùa thần. Rùa này có lẽ đã sống đến ngàn năm , mình nó đến
hơn ba thước (96cm), trên lưng có chữ khoa đẩu ghi chép việc từ khi mới mở mang
về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch". Sau khi khảo sát cổ văn tự các
nước trên thế giới từ Địa Trung Hải,Trung Đông, đần Ấn Độm, Chàm, Trung Hoa,
Nhật Bản, tác giả Nguồn Gốc Dân Tộc Viẹt Nam đưa ra khám phá mới nhất về chữ
Việt cổ với những hình khác có tính cách qui ước có thể lànhững chữ tượng hình
trên vách hang đá ở Thương Phú (Quảng Bình) hay Kỳ (Thái Nguyên), Len Đất (Lạng
Sơn), Mường Hoa (Cao Nguyên Tây Bắc), Yên Lạc (Quảng Bình).
Ông Trần Bích San tạm kết luận về "Chữ Việt Cổ" như sau:
"Hai tác giả Kim Định và Nguyễn Khắc Ngữ đã bổ túc cho vấn đề có hay không một
thứ văn tự Việt. Trước khi chữ Nôm xuất hiện , Việt Nam ta quả đã có một thứ chữ
viết riêng, đó là chữ khoa đẩu có hình dạng giống như con nòng nọc đầu to duôi
nhỏ đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 23 trước Tây Lịch. Tuy nhiên thứ chữ Việt cổ này
mới đang ở trong thời kỳ Tự thì bị bỏ dở vì cuộc đô hộ hơn một ngàn năm của
người Tàu. Những khám phá của Nguyễn Khắc Ngữ chỉ là bước đầu. Để tìm ra những
qui ước chung và hệ thống hóa thứ chữ này,chúng ta còn cần thêm
nhiều vết tích nữa."
Theo sách Tiền Hán Thư của Trung Hoa có ghi nhận đến về giai thoại con rùa thần
-nguồn gốc của một loại cữ cổ tự của người Việt - là đời Đào Đường tại phương
Nam có một họ gọi là Việt Thường phái sứ bô sang Trung Hoa triều cống một con
thần qui . Theo Tiền Hán Thư thì con thần qui đó rất hiếm thấy, sống cả một
thiên niên kỷ , nơi mu nó có cả những giòng chữ hình con nòng nọc, được gỉ thích
là các hàng chữ (nòng nọc) này ghi lại việc trời đất mở mang. Nghe thấy lý thú
và biết đó là lời lẽ giá trị, nên Vua Nghiêu bèn hạ lệnh cho quan triều chuyên
lo việc sử sách chép lấy và chú thích là "Qui Dịch". Sử sách ta từng xác nhận
Việt Thườing là quốc hiệu từ xa xưa của đất nước ta. Như vậy, ta có thể tin rằng
hình dáng của những con nòng nọc khắc trên mu rùa là chữ Việt cổ.
Không phải chỉ Tiền Hán Thư ghi nhận về các dòng chữ có hình dáng con nòng nọc
mà luôn cả sách Thanh Hóa Quan Phong của Vương Duy Trinh - tác giả ở vào thế kỷ
thứ XlX có đề cập đến loại chữ này, mà theo tác giả ghi là tại tỉnh Thanh Hóa,
một châu quan có chữ viết, đó là lối chữ thập châu đấy. Ông bác bỏ luận điệu là
nước Việt không có chữ và khẳng định không phải vậy. Thế có nghĩa là ông bảo
Thập châu là một trong những dải đất của nước ta mà có chữ há lẽ nào nơi chợ
(chỗ tập trung) lại chẳng có hay sao? Và, họ Vương cả quyết:" Lối chữ đó là chữ
nước ta".
Gần đây cũng có số các nhà biên khảo nghĩ rằng chữ có hình dạng con nòng nọc như
vậy xuất hiện từ lâu ở thập châu - có nghĩa nơi sinh sống của người Thái,người
Mường cũng như các tộc thiểu số khác. Vậy thứ chữ đó có liên quan họ hàng vơi
các loại chữ ở Ai Lao. Như các nhà khảo nhận thấy chữ của Ai Lao thuộc cùng phái
với chữ Pâli - một loại chữ cùng nguồn gốc với Ấn Độ.
Hơn nữa, các nhà khảo cổ truy cứu trên mặt trống đồng tại Lũng Cú tức Đồng
Văn-Hà Giang, rõ ràng có một số nét chữ (nòng nọc) đủ đưa ra làm chứng tích của
loại chữ của người Việt từ ngàn xưa lưu lại.
Vào nửa thứ hai của tân thiên niên kỷ thứ nhất là thời kỳ được xem là cực thịnh
của nền văn hóa Đông Sơn, lúc bấy giờ đã dùng một lối chữ viết như loại chữ có
hình dáng như con nòng nọc. Có thuyết cho rằng chữ Việt cổ này bị mai một dưới
thời Bắc thuộc cả ngàn năm. Có thể là đúng như vậy, vì loại chữ Việt cổ lúc bấy
giờ còn nằm trong tình trạng phôi thai đơn giản không thể ghi hết được ý nghĩ
của mình,trong lúc đó chữ Hán được xem là một loại chữ đầy đủ nhất loại bỏ dễ
dàng đối với các loại chữ còn nghèo nàn như chữ Việt ta lúc bấy giờ.
Tại các quốc gia Đông Nam Á nước nào cũng có loại chữ riêng của mình, nhưng ở
vào thơi kỳ đầu công nguyên trở về sau các bản văn có tính chung cho toàn vùng,
thường sử dụng chữ Trung Hoa tức chữ Hán - đối với chữ Hán người Việt ta lúc bấy
sử dụng nhiều nhất và xem đó là văn tự chính - hay chữ Sanskrit cùng chữ
Pâli Ấn Đô.
Chữ nôm của chúng ta cũng dần dà xuất hiện vào thời kỳ này qua hình thức tương
tự của chữ Hán. Tưởng cũng nên biết vao thế kỷ thứ XVl trở đi các quốc gia theo
Hồi giáo cũng còn sử dụng cả loại chữ của Á Rập. Chữ nôm ta thời đó cũng chỉ
giới hạn dù có hơn chữ loại hình dạng nòng nọc, nhưng cũng chẳng mấy ai thích
dùng đến, dù ghi nhận được tiếng nói của chính quốc gia mình...
Điều mà lịch sử đã chứng minh lên được rõ ràng là trong các quốc gia thuộc vùng
Đông Nam Á, chẳng có nước nào lại chịu ảnh hưởng nền văn kinh của Trung Hoa lâu
dài và gần như dính liền nhau mà bất khả phân như nước Việt ta.
Nhà Tần bắt đầu tràn về phương Nam vào giữa thế kỷ thứ lll trước Tây lịch khi họ
vượt qua sông Dương Tử, họ lần lưột thôn tính các cư dân Bách Việt. Tuy vậy đối
với nước Âu Lạc nhà Tần không thể chiếm cứ nổi. Về sau nhân thời cơ nhà Tần suy
yếu, Triệu Đà lúc bấy giờ là tướng của nhà Tần cầm quân cắt cứ Phiên Ngung rồi
xưng đế, tức là Nam Việt đế, tức vua nước Nam Việt. Nhưng đến năm 111 của cuối
thế kỷ thứ ll trước công nguyên nước Nam Việt bị nhà Hán thôn tính gồm luôn
nướvc Âu Lạc. Nền văn hóa của ta bị mất dần và dân chúng hoàn toàn bị ảnh hưởng
vào nền văn hóa Trung Hoa. Chữ cô Việt bị phôi pha đi bắt đầu vào giai đoạn này,
kể các sĩ phu trong nước cũng chịu ảnh hưởng luôn trước làn sóng văn minh của
phương Bắc.
Năm 938 Ngô Quyền dấy binh gianh lấy lại nền độc lập. N Bền văn hóa cố hữu của
dân Việt được dần dà thu hồi, song chỉ vớt vát lại những tinh ba còn lại hoặc bị
chìm đi trong quên lảng hoặc chủ trương Việt hóa những gì mà người Trung Hoa
mang truyền sang. Điểm đặc biệt của sự thu hồi nền văn hóa là trên lĩnh vực nền
văn hóa bình dân - đó là nền văn hóa vô cùng phong phú, nó nói lên tinh thần bất
khuất của một dân tộc và bản lĩnh của ông cha ta một cách quyết liệt và sinh
động nhất. về chữ viết của quốc gia đó
|
|