Đại Chúng số 122 - ngày 15 tháng 6 năm 2003

Lá Thư Tòa Soạn
Vườn Thơ
Lễ Kỷ Niệm Báo Đại Chúng
Thế Giới và Bình Luận
Cuộc Chiến Chưa Tàn
Đừng Hỏi Tại Sao
Câu Chuyện Mần Ăn Tại Việt Nam
Phong Trào Lãng Mạn và Tuổi Trẻ
Đọc "Cô Bé Bên Giàn Hoa Bí Đỏ"
Giả Thuyết Bệnh SARS
Mỗi Tuần Một Trang Y Học
Còn Mãi Yêu Em
Yếm Vải Sứ Thanh
Cô Kiều với Phạm Quỳnh
Nấu Ăn Ngon Cho Người Yêu
Đọc Báo Dùm Bạn
(tiếp theo kỳ trước)

Đọc Báo Dùm Bạn (bài 2)
Y Khoa va Y Học

ĐỌC BÁO DÙM BẠN
(tiếp theo kỳ trước)

 

chứa đựng cái gì." Dĩ nhiên ai cũng hiểu cá nhân liên quan sự kiện đã không còn tại thế. Điểm quan trọng hơn cả, lịch sử đã sang trang từ lâu. Thời đại sẽ không bị xúc động.

Sự kiện Chennault -Bùi Diễm vẫn còn dai dẳng đến nhiệm kỳ ứng cử thứ 2 của Nixon, mới phần nào được dư luận chú ý qua vụ Watergate. Khi Nixon làm áp lực cựu TT LBJ buộc LBJ phải kêu gọi các đảng viên Đảng Viên Dân Chủ chấm dứt điều tra vụ Watergate để trao đổi với Nixon. Nếu không, Nixon sẽ đe dọa đưa ra công khai vụ LB. Johnson nghe lén kế hoạch ứng cử của Nixon và Agnew năm 1968 (mặc dầu Johnson không ra ứng cử). Thủ đoạn của Nixon muốn chứng minh, "không phải Nixon là người nghe lén đầu tiên mà chính đảng Dân Chủ." Trong Tape thâu ngày 9-1-1973 Nixon yêu cầu, "LBJ phải áp lực chấm dứt vụ phe Dân chủ trong Quốc hội điều tra." Thật là qúa quắt, LBJ phản pháo đe dọa tố cáo Nixon, "tiết lộ toàn bộ hồ sơ Bí Mật An Ninh Quốc Gia Hồ sơ Chennault," mà Bùi Diễm thủ vai con thoi trong cuộc bầu cử năm 1968. Nixon đã xử dụng Nguyễn Văn Thiệu & Bùi Diễm bất hợp pháp, can thiệp chính trị Hòa đàm Paris tranh cử. Bằng hứa hẹn, thuyết phục TT Nguyễn Văn Thiệu qua Chennault, và đường dây Bùi Diễm. Yêu cầu Saigon không tham dự thương thuyết, phá hoại chính sách tranh cử của Đảng Dân Chủ, khiến Nixon đắc cử. Cuộc tranh cãi không hề nói tới trường hợp ông Nguyễn Văn Kiểu, Anh của Thiệu, hiện làm Đại Sứ tại Đài Loan, như ông ĐS Bùi Diễm muốn lôi kéo vào chia trách nhiệm ghi trong cuốn "Gọng Kìm Lịch Sử."

Vào ngày 9-11-1968, trong cuộc họp, Bộ Trưởng Quốc Phòng Clifford đã nói với mọi người, "Hiện nay TT Johnson cho Thiệu là một kẻ lừa dối, phản bội.

hennault vẫn còn tiếp tục liên lạc hoạt động -- Nixon dường như không muốn hoặc không thể hổ trợ -- Người của ông ta đang chơi trò phản bội." Clifford nói, LBJ đã nhận đươc các cú điện thoại "của các TNS (dĩ nhiên là đảng Dân Chủ) gọi Thiệu là kẻ "Kiss your behind," (tục tĩu) "Thiệu phải chết." Đó là hậu qủa việc TT Thiệu và ĐS Bùi Diễm thực hiện. Những thù oán chính trị đầu tiên, trực tiếp từ hậu qủa kế hoạch của TT Nguyễn Văn Thiệu và ông Bùi Diễm tạo ra để đổi lấy một số "hứa hẹn hoặc cam kết cá nhân của ông Nixon" có lợi cho bản thân ông Thiệu và Diễm, củng cố địa vị.

Từ đó dựa vào thế Mỹ, đúng ra là Nixon "thần hộ mệnh" loại trừ đối lập tại VN. Điều này rất ít người biết, nhưng đều tỏ ra ngạc nghiên trước sự thờ ơ mặc tình TT Nguyễn Văn Thiệu thao túng sân khấu chính trị miền Nam. Đồng thời Thiệu nhượng bộ cho Mỹ thiết lập guồng máy làm việc cho Hoa Kỳ ở cấp bộ lớn trong Chính phủ. Tỷ dụ như các khuôn mặt Tướng Nguyễn Khắc Bình, Đặng Văn Quang, Đồng Văn Khuyên, về dân sự thôi khỏi bàn nhiều hàng Bộ trưởng, TNS, Dân biểu Quốc hội cộng tác mật thiết với Mỹ. Cao điểm là vụ Máy bay Mỹ "bắn lầm" nhóm sĩ quan thân tín của Tướng Kỳ tại Chợ Lớn. Vụ án sau đó chẳng ai nhắc tới. Tới tháng 7-1969 TT Nixon công du á Châu ghé VN thảo luận với TT Nguyễn Văn Thiệu địa vị của TT Thiệu hoàn toàn vững chắc.

Riêng TT Johnson và đảng Dân Chủ trong thời gian tại chức, qua vụ Chennault-Bùi Diễm rất phẫn nộ, ông nói, "Tôi nhớ ngay tới một số cuộc nói chuyện về Anna Chennault và guồng máy chính trị lừa lọc của các tay Machiavellian," Còn bà Johnson nói, "Tổng Thống Johnson thất vọng về vài người Mỹ đã can thiệp vào công việc tìm

kiếm hòa bình đang tiến hành." Bao nhiên bực tức đổ dồn lên Nixon, Johnson nói với các phụ tá, Nixon là tội phạm, hợp tác với quân thù làm ung thối cuộc thảo luận hòa bình và viễn tượng thỏa hiệp trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ. Theo Bạch ốc sự kiện "vào giờ chót, Thiệu thay đổi ủng hộ Nixon, khiến cho mọi người nghi ngờ thiện chí ngưng oanh tạc BV. . . ảnh hưởng chính trị đảng Dân Chủ vì thế giảm từ 25-33%." Dĩ nhiên làm cho Humphrey thất cử.

Nội bộ chính trị Mỹ vì vậy ảnh hưởng tới VNCH. TT Johnson tức giận TT Thiệu và PTT Kỳ từ chối thảo luận Hòa bình do Đảng Dân Chủ thực hiện. Họ cho là thương lượng ủng hộ Nixon có lợi hơn. Vào ngày 5-11-1968, vớt vát lại hai ông Thiệu & Kỳ yêu cầu Johnson tái bảo đảm thảo luận. TT Johnson trả lời ngay, "không có tái bảo đảm nào đối với họ." Ông muốn cả hai hiểu rằng, lòng tín nhiệm Thiệu & Kỳ, đã lung lay tận gốc rễ. Tuy nhiên vấn đề VN đã ngoài tầm tay của Johnson.

Điều quan trọng hiện tại đối chính giới Hoa Kỳ chờ đợi, khi nào TT Johnson sẽ công khai kết tội Nixon xử dụng Hòa Đàm vào tranh cử. Mưu mô, hứa hẹn, thúc đẩy VNCH khước từ tham dự, chứng tỏ chính sách của Đảng Dân Chủ hay nói riêng Chính sách của Johnson & Humphrey không hiệu dụng, bị VNCH chống lại. TT Johnson chống Nixon kịch liệt mà trước đây không hề xẩy ra.

Nguyễn Văn Thiệu - Bùi Diễm - Chennault:

Trước khi trở thành nhân vật chủ chốt ảnh hưởng tới Hòa Đàm Paris, Kissinger đã hai lần đến VN:

1.-1965 lần thứ I, Kissinger đến Saigon gặp gỡ các chánh khách, chính trị gia, Tướng lãnh như Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Đây là chuyến đi đầu tiên của Kissinger qua Đông Dương. Theo Tướng Đôn cho biết "Lúc đó Kissinger chỉ là một giáo sư, dù là của Đại Học Harvard, nên có lẽ hai ông Thiệu, Kỳ tiếp đón không niềm nở. Kissinger phật ý." (Đôn: 398).

2.-1966 Kissinger sang Saigon lần thứ II nghiên cứu tình hình, sửa soạn nhiệm vụ. Nhưng lần này, theo báo cáo của Kissinger, "Các Tướng trẻ chưa đủ khả năng lãnh đạo miền Nam trong chiến tranh." (Đôn :399). Ý của Tướng Đôn đề cao vai trò của các cựu Tướng Lãnh.

Chúng tôi cũng không rõ lý do tại Kissinger được cử sang VN có phải do chương trình của Harvard tài trợ hay do Chính phủ Mỹ muốn có một cái nhìn mới về VN? Tuy nhiên kể từ khi Kissinger xuất hiện nền chính trị của Miền Nam VN khác với các thời đại trước, theo TT Johnson cho là "Thời Đại của Machiavellian." (Lừa lọc, phản bội lẫn nhau) Hoặc đảng Cộng Hòa Mỹ đưa Kissinger sang VN chuẩn bị chính trường tương lai.

Sau khi Nixon đắc cử, do sự thay đổi lập trường của hai ông Thiệu & Bùi Diễm công khai chống Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ ngay tại Washington. TT Thiệu và ĐS Bùi Diễm hài lòng chọn lựa được người ủng hộ coi đó là thắng lợi lớn, giúp VNCH chiến thắng. Sau đó Nguyễn Văn Thiệu được ủng hộ mạnh của riêng Nixon. Địa vị TT Thiệu vững vàng hơn ngay sau tháng 1-1969, Nixon đăng quang. Còn Bùi Diễm không thay đổi vẫn là Đại Sứ VNCH, một nhân vật thế lực bậc nhất thời đại, con thoi giữa TT Nixon và TT Nguyễn Văn Thiệu. Từ nay Diễm bỏ Kỳ quay sang ủng hộ Thiệu. Tới ngày 2-12-1968 trước tin thắng cử, Nixon đã bổ nhiệm Kissinger vào chức vụ Cố Vấn An Ninh trong cuộc họp báo ngày 2.12.1968 tại phòng khách Pierre Hotel.

Dĩ nhiên cá nhân Ông Nguyễn Văn Thiệu lợi trông thấy. Lần lượt loại đối thủ "Nguyễn Cao Kỳ" ra khỏi vòng chiến dễ dàng. Đưa tay chân củng cố thế lực vững hơn trước rất nhiều, loại tất cả những đối thủ ra khỏi võ đài chính trị VNCH. Đó là cái mà TT Nguyễn Văn Thiệu và ĐS Bùi Diễm được riêng cho cá nhân. Ngược lại VNCH mất khá nhiều, "một nửa khối chính trị nước Mỹ" không ủng hộ Thiệu. Nhất là hai khối Lập Pháp, Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ đa số thuộc về đảng Dân Chủ.

Trước diễn tiến chính trị do TT Thiệu và ĐS Bùi Diễm lập ra, ngoài CS, VNCH phải đương đầu với một thế lực mới Đảng Dân Chủ Mỹ. Mặc dù trước đây Đảng Dân Chủ qua TT Johnson ủng hộ tích cực Chiến tranh VN, theo đường lối, chính sách của Đảng Dân Chủ. Tác giả Berman đã đưa ra bảng tổng kết đảng Dân Chủ can thiệp vào cuộc chiến tranh VN với, "540.000 quân nhân. Trên 30.000 người đã hy sinh trên chiến trường. Cho tới năm tài khóa năm 1969 tốn phí 30 tỷ Dollar!. Chỉ riêng năm cuối cùng của đảng Dân Chủ điều hành chính sách 1968, quân nhân Mỹ thiệt mạng vì nền dân chủ 14.500 người." (Berman :45) Bên cạnh đó là sự hy sinh của biết bao nhiêu quân nhân VNCH, dân chúng vô tội.

Ngay khi mới đắc cử, TT Nixon cùng với Kissinger thiết lập đường dây bí mật liên lạc với CSBV, thực hiện chiêu bài hứa hẹn với cử tri Mỹ "Thực hiện hòa bình trong 06 tháng." Người ta không hiểu thực hiện hòa bình trong 06 tháng như thế nào, vì lập trường của "VNCH & CSBV khác nhau như nước với lửa." Họa chăng chỉ còn cách bán rẻ một trong hai phía. Dĩ nhiên không thể là CSBV, Nixon chỉ còn bán VNCH như Pháp đã thực hiện bán rẻ Chính phủ Bảo Đại qua Thỏa hiệp Genève 1954, đổi lấy hòa bình theo kiểu "Không Hòa Bình cũng chẳng Danh Dự."

Canh bạc Đông Dương, đã được hai tay chơi VNCH dốc toàn lực, góp vốn trên chiếu. Lập tức bị đối thủ Nixon, Kissinger phản bội ngay sau ngày nhậm chức từ 14-7-1969. Nixon và Kissinger mời nhân vật cựu Thực dân Pháp, Jean Sainteny tới Washington D.C. dưới tên lạ hoắc, "Mrs Edward McCarthy để che dấu tung tích, sự chú ý dư luận." (Berman :37) dùng Sainteny làm con thoi giữa Washington D.C. và Hà Nội. Nixon nắm quyền lực, tình thế đã đổi khác hoàn toàn. Tác giả Berman đưa ra một số chi tiết lịch sử mà trong tự sự sau này của Kissinger, cũng như của Nixon không giải thích. Hoặc không bao giờ nhắc tới, hoặc chỉ nói tới thiếu rõ ràng.

Nixon và Kissinger xử dụng Sainteny hoàn tất cái gọi là "an honorable settlement" (Giải pháp danh dự). Dĩ nhiên không danh dự đối với VNCH, mà ngược lại đưa VNCH vào ngõ cụt chiến tranh. Ngày 15-7-1975 (14-7-1975 ngày VNCH) Nixon chính thức nói chuyện với Sainteny. Kissinger đóng vai thông dịch. Sainteny nói với Nixon, Tôi sẽ cố gắng tiếp xúc với Mai Văn Bộ, đại diện của Xuân Thủy tại Paris sẽ trao lá thư của Nixon gửi cho HCM. Tôi sẽ yêu cầu lá thư đó được gửi tới Hà Nội nhanh nhất. Đồng thời cũng báo cho Bộ biết, Kissinger sẽ tới Paris ngày 4-8-1969 để biết thái độ của Hà nội ra sao qua thư của TT Nixon. ( :38, 39).

Phía Mỹ đã chủ động tìm Hà Nội qua đường giây trung gian Thực dân Pháp. Điều này dĩ nhiên đối với VNCH là một thảm bại, TT Thiệu và Đại Sứ Diễm "thay ngựa giữa dòng," không mua được sự thành tín của Đồng Minh. Chỉ hơn 06 tháng sau tình thế chính trị VN thay đổi. Tác giả Berman nổ lực phơi bày sự thật chung quanh "cái gọi tiếp xúc mật sau lưng VNCH" như sau, "Sainteny was instructed to tell Xuan Thủy and Mai Văn Bộ that President Nixon sincerely wanted to end the war and was prepared to initiate high level secret negotiations in order to accomplish that end." (:39) Nixon đã phơi trắng con bài tẩy của Mỹ cho biết "Mỹ thật sự cần thương thuyết dĩ nhiên Nixon không cho phép Sainteny tiết lộ kế hoạch thương thuyết của Mỹ ra sao."

Đây là điều tai hại cho VNCH, từ đó giới cầm quyền CS Hà Nội bắt bí từ việc này đến việc khác. Để thỏa mãn điều kiện của Hà Nội, TT Nixon và Kissinger không ngừng gia tăng áp lực lên VNCH. Thêm vào việc TT Thiệu chống đảng Dân Chủ Mỹ. Đại sứ Bùi Diễm công khai ủng hộ đảng Cộng Hòa tại Washington D.C. Tạo tiền đề Đảng Dân Chủ chống VNCH trong Quốc Hội Mỹ, che dấu dưới nhiều danh nghĩa khác nhau. như "hạn chế mục tiêu quân sự, cắt giảm viện trợ, bó tay quân sự . . ."

Sự kiện liên lạc "White House - Hà Nội" trên, được nhắc chi tiết trong cuốn, "Tấn Công Ngoại Giao & Tiếp Xúc Bí Mật" (Mai Văn Bộ. TP/HCM; NXB TP/HCM; 1985 :39). Sự phản bội VNCH rõ ràng hơn, trong bức thư của Nixon gửi Hồ Chí Minh, "The time has come to move forward at the conference table toward an early resolution of this tragic war. You will find us forth-coming and open-minded in a common effort to bring the blessings of peace to the brave people of Vietnam. Let history record that at this critical juncture, both sides turned their face toward peace rather than toward conflict and war." Thời điểm tới, tiến thẳng về hội nghị đàm phán để giải pháp sớm ra đời, giải quyết cuộc chiến tranh bi thảm. Ngài sẽ thấy người Mỹ tới với tinh thần cởi mở, nỗ lực đem ước mong hòa bình cho người dân đảm lược Việt Nam [Không rõ Nixon ám chỉ Bắc hay Nam VN?]. Để lịch sử bình phẩm thời đại cả hai phía [Mỹ & CSBV!] cùng hướng về hòa bình hơn là tiếp tục xung đột và chiến tranh.)

Đoạn văn Nixon thuyết phục BV, gián tiếp kết tội VNCH thích chiến tranh hơn. Chỉ có người Mỹ và CSBV là chuộng hòa bình?! Tác giả Berman đã nhận xét bức thư gửi Hồ Chí Minh, "The penultimate draft of Nixonõs letter to Ho reveals that Nixon was just as torn by the war as LBJ had been." (:39)

Con đường phản bội, tiếp tục diễn ra giữa Nixon, Kissinger và CSBV. Tuy nhiên ngoài mặt, che dấu dưới tình "Đồng Minh nước bọt" chan chứa, qua hình thức hợp pháp "Hội nghị định kỳ tại Paris có sự hiện diện của VNCH là một trong 4 thành viên." Đây chỉ Hội nghị che mắt dư luận. Thực tế cuộc đàm phán mật giữa Kissinger - Nixon và Lê Đức Thọ - Lê Duẫn đã quyết định tất cả. Bất chấp VNCH có thuận hay không thuận. Hoa Kỳ nỗ lực che dấu tin tức mật đàm, e ngại bị tiết lộ. Khiến VNCH có thể "giận hờn" không tham dự hội nghị Paris nữa. Cẩn thận đến độ, trong các báo cáo trình Nixon tên các lãnh tụ CS Mai Văn Bộ được biến cải mật danh thành Maurice, Lê Đức Thọ là Louis, Phạm Văn Đồng là Paul. (:48)

Ngoài Nixon, Kissinger và Ellsworth Bunker chỉ một vài Cố vấn An Ninh được phép biết, hiện đang có cuộc thảo luận mật giữa CSBV và Mỹ. Tất cả cơ quan Chính phủ Mỹ đứng ngoài, kể cả Bộ Ngoại Giao, Bộ Tham Mưu Liên Quân, CIA và ngay cả Bộ Quốc Phòng mãi cho tới sau ngày 25-1-1972. Tác giả Berman khám phá ra rất nhiều dữ kiện chứng minh "thiếu thành thật của Đồng Minh Mỹ đối với VNCH." Chính phủ Nixon trở thành, "In the end, he would tell a different story to each side - to Thieu, to his advisers, and to the public." (:44 "Cuối cùng, ông [Nixon] đã nói khác nhau cho mỗi phía biết - đối với Thiệu, với các cố vấn của Nixon, và đối dư luận chung.) Sự thành tín, nghiêm chỉnh của các vị Nguyên thủ trước sách lược chung biến mất. Đó chính là ý nghĩa của chữ phản bội mà TT Nguyễn Văn Thiệu & ĐS Bùi Diễm đã mua được, qua việc ủng hộ Nixon vào Bạch ốc.

Thời đại bóng tối đã qua, nhưng giá phải trả rất đắt. VNCH xụp đổ do các bàn tay ma quái sắp xếp. Ngôn ngữ chính trị trống rỗng liên tiếp được TT Nguyễn Văn Thiệu xử dụng lập đi lập lại ở Miền Nam VN suốt giai đoạn từ năm 1969-1973 đã tạo nên ảo giác chống CS. Ru ngủ dư luận, các thế lực chống đối. Cả Nguyễn Văn Thiệu và Kissinger - Nixon đều đưa lập luận tưởng chừng như, "nếu Nixon không bị vụ Watergate VNCH đã chiến thắng." Mãi cho tới sau này huyền thoại chống CS của Nixon - Kissinger - Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn được tin tưởng. TT Nguyễn Văn Thiệu ngủ say trên chiến thắng tranh cử Nixon. Chính thức được Nixon ủng hộ "ngôi vị thêm vững chắc" bất chấp mọi hậu qủa. Sau này Thiệu & Trần Văn Hương trình diễn màn độc diễn dân chủ có một không hai trong lịch sử. Nixon đã phải muối mặt ủng hộ. Địa vị và quyền lực đã sói mòn niềm tin tưởng của dân chúng Việt Nam.

Trong suốt Chương II, "Nixon Takes Control" (37-60), Tác giả Berman trình bày Nixon - Kissinger tìm cách nối đường dây thương thuyết mật Hoa Kỳ - CSBV. Tuy nhiên hầu hết là sự kiện bình thường như đã được nhiều tác giả trước đây ghi chép. Cuộc tiếp xúc bí mật diễn ra tại Paris vào ngày 4-8-1975 giữa các đại diện Kissinger - Xuân Thủy - Mai Văn Bộ; trình bày rõ trong cuốn "Tấn Công Ngoại Giao & Tiếp Xúc Bí Mật" (Mai Văn Bộ. TP/HCM; NXB TP/HCM; 1985). Điều mà TT Nguyễn Văn Thiệu hy vọng Nixon sẽ tiếp tục chống CSBV) Trong cuộc tiếp xúc dầu tiên còn kèm theo Thông Dịch Viên Nguyễn Đình Phương. Phương sau này trở thành Sử gia CSVN tiếp xúc với Phái đoàn nghiên cứu Sử học McNamara - CSBV năm 2000, ghi trong cuốn "Argument Without End: In Serch of Answers To the Vietnam Tragedy." (Robert S. McNamara . . .; New York; Public Affair; 1999) mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu với độc giả vào năm 1999 trên một số tờ báo tại Bắc Cali và một vài nơi khác. Riêng WA đã đăng trên tờ Chính Luận. Điều này trước Nixon, Chính phủ Johnson đã xử dụng nhiều đường giây khác ghi trong cuốn "Mission To Hanoi." của các tác gỉa Harry S. Ashmore & William C. Baggs & Elaine H. Burnell. (New-York; G.P. Putnamõs Sons; 1968.) tiến tới đàm phán bí mật. Không thấy có sự khác biệt nào giữa Nixon và Johnson. Tuy nhiên đàm phán cả mật, cả công khai đều không đưa đến một kết qủa nào. CSBV khăng khăng giữ lập trường 10 điểm của MTGPMN làm căn bản, giải quyết tất cả các vấn đề.

Đến tháng 8-5-1969, CSBV kêu gọi Hoa Kỳ triệt thoái hoàn toàn, phóng thích tù nhân và thành lập Chính phủ Liên Hiệp gồm 03 thành phần CSBV, MTGPMN & VNCH. Tuy nhiên sau đó, trước sự thiếu thành tín và cuộc rút quân của Mỹ, CSBV tiến thêm một buớc đòi hỏi, "Loại bỏ TT Nguyễn Văn Thiệu." Đối với CSBV & MTGPMN khăng khăng giữ quan điểm hòa bình chỉ có thể, "Khi Mỹ rút quân và TT Thiệu phải từ chức."

Nhiều người kết tội QLVNCH suy yếu, thậm chí còn thóa mạ các Tướng lãnh VNCH hèn nhát, bất tài. (Trừ những kẻ tham nhũng) Điều này thật bất công. Không ai có thể tưởng tượng nổi, Quân lực VNCH có thể đương cự suốt hơn 20 năm trong điều kiện "Chiến tranh giới hạn" (Limited War). Hoa kỳ đã không cho phép QLVNCH tấn công, mà chỉ được phép Phòng thủ miền Nam. Một cuộc chiến tranh, QLVNCH chỉ xử dụng một "nửa sức mạnh." Điều gì đã khiến VNCH phải chịu đựng thảm cảnh trên? Washington DC. chỉ đạo cuộc chiến phi lý nhất. Chỉ có thể Chính phủ Mỹ trả lời được câu hỏi này.

Tới ngày 25-12-1972, mật đàm giữa Mỹ và CSBV tới hồi gay cấn. Nixon & Kissinger thay đổi thái độ, tác giả Berman gọi đó là "Problems of philosophy and art" được diễn dịch như sau "He recognized that the most difficult problems are not where good people meet evil people, but are where two strong people with strong convictions confront each other." (Kissinger cho rằng những vấn đề khó khăn phức tạp nhất không phải do người tốt hay xấu mà khởi nguồn từ hai thế lực mạnh tương đương, cùng một niềm tin sắt đá đối đầu với nhau." :43). Kissinger đổi lập trường, nói với Xuân Thủy "Rất muốn coi CSBV như người bạn hơn là kẻ thù và hy vọng rằng vào cuối tháng 1-11-1970 hai bên sẽ không còn thử thách giải pháp của nhau, sẽ dùng ngoại giao hơn là quân sự." Đó cũng là ý muốn của Nixon . . . Từ thái độ đối nghịch, Nixon và Kissinger biến thành bạn với CSBV kể từ ngày 1-11-1970. Như vậy đồng minh VNCH sẽ là gì của Hoa Kỳ? Tất cả biện pháp Nixon thực hiện sau khi nhậm chức chẳng lẽ chỉ là hư chiêu, như dội bom để đưa Mỹ làm bạn với CSBV? Cánh cửa thảo luận mật khai thông giữa Mỹ và CSBV qua vai trò bạn & Ngoại giao quyết định số phận VNCH. Từ thái độ CSBV cho rằng, sự hiện diện của Nguyễn Văn Thiệu tại miền Nam sẽ khó hình thành giải pháp. Đến đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức, mới có thể thỏa hiệp là bước tiến tình bạn do Kissinger và Nixon chủ trương.

Nguyễn Văn Thiệu mãi sau ngày 30-4-1975 mới có thể nhận ra VNCH "đã bị bán đứng." Nhưng ông đã chót đặt bút ký vào văn bản!

Hòa đàm Paris và Mật đàm giữa Kissinger - Nixon và Lê Đức Thọ - Lê Duẫn là hai hội nghị tương phản. Hình ảnh diễn ra khá ngộ nghĩnh "Chiếu trên và Chiếu dưới" giữa Paris. VNCH được xếp vào chiếu dưới gồm Trương Tuần, Phó Lý, Tuần Đinh VNCH & MTGPMN, chiếu trên gồm Chánh Phó Tổng, Tiên thứ chỉ trong làng. Cả hai chiếu đều ôn ào bàn việc làng. Bàn thì cứ bàn, nhưng quyết định rõ ràng ở Tiên Thứ chỉ, Chánh Tổng - Hoa kỳ & CSBV, không thể tới lượt Trương Tuần, Phó Lý, Tuần Đinh.

Cả thế giới bị cú lừa gạt lớn, chú mục đăng tải tin tức từ chiếu dưới. Nguyễn Văn Thiệu, Bùi Diễm và các nhân viên Phái Đoàn VNCH & MTGPMN nổ lực tranh cãi, bàn thảo suốt bao năm trời. Tốn công tốn sức cuối cùng chỉ là công cốc "nước đổ lá khoai." Đó chính là thân phận tiểu nhược quốc, mà không một người nào trong thời đại ý thức được. Sự vong thân chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu, một khả năng VNCH không độc lập kinh tế phải trả một giá rất đắt.

TT Nixon sau ngày nhậm chức 18-1-1969

Ngay sau khi nhậm chức TT Hoa Kỳ, khoảng gần 2 tháng TT Nixon đã sẵn có Kế hoạch về VN. Ông phái BT/QP Melvin Laird cùng với Tướng Wheeler tới VN. Chuyến đi hết sức quan trọng đối tương lai VNCH, làm thay đổi bộ mặt chiến trường VN. Nếu TT Johnson và đảng Dân Chủ tham chiến tại VN tích cực bao nhiêu, thì TT Nixon và đảng Cộng Hòa nổ lực giảm cam kết bấy nhiêu. Sứ mệnh của Lair & Wheeler tới VN, "The American people expected the administration to bring the war to a satisfactory conclusion . . . and a satisfactory conclusion to most Americans meant eventual disengagement of United States troops from combat" (Berman :49) Đây chính là món hàng mà Nguyễn Văn Thiệu, Bùi Diễm trao đổi được với Nixon. Qua vụ Chennault đưa đến kết qủa thắng cử, thiếu vẻ vang của Nixon. Cả hai lãnh tụ VNCH đã không nhận thấy sự phân hóa giữa Mỹ và VNCH. Mặc dù cùng một chiến trường nhưng rõ ràng hai mục đích đã khác nhau.

Hoa kỳ theo đuổi một cuộc Chiến tranh giới hạn, như cả hai BT/QP Mỹ McNamara phải từ chức vì cho rằng, Chiến tranh giới hạn "không thể đưa cuộc chiến tranh tới chiến thắng."

Bộ Trưởng QP Clark Clifford người thay thế McNamara cũng tương tự, tuyên bố "không thể chiến thắng nếu tiếp tục Chiến tranh giới hạn."

Trong cuộc tiếp xúc các Tư Lệnh Chiến Trường Mỹ tại VN, Laid báo cho họ biết, ". . . their task was to find the means to shift the combat burden ỏpromptlyõ and ỏmethodicalllyõ to the South Vietnamese." (:49 "Có nhiệm vụ phải tìm phương cách chuyển giao gắnh nặng chiến tranh nhanh chóng và có phương pháp cho Miền Nam VN.") Nếu coi đây là sự thành công của ông Nguyễn Văn Thiệu và Bùi Diễm, đó là giúp Mỹ cất đi gánh nặng trách nhiệm tại VN. Sau chuyến thăm viếng có mục đích Laird trở về Hoa Kỳ bắt đầu thảo luận với TT Nixon. Soạn thảo kế hoạch triệt thoái lính Mỹ ra khỏi VN. Một mặt khác, tiếp tục nối đàm phán giữa Mỹ và CSBV chưa đâu vào đâu. Kế Hoạch "De-Americanlize" (Giảm Mỹ tham chiến) đúng tên gọi ban đầu do Bộ Quốc Phòng Mỹ đặt. Nhưng khi thi hành, dư luận đã trả kế hoạch về đúng thực chất, thành kế hoạch "Vietnamization Plan." Tên Việt hoa mỹ là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Trắng trợn, đầy kịch tính và mầu sắc hơn "thay mầu da trên xác chết." Như các báo chí Saigon đã mô tả và nhất là đối phương, CS Hà Nội hay xử dụng. Kế hoạch mô phỏng Thực dân Pháp. Trong cuộc Chiến tranh Thuộc địa năm 1945-1954, đưa người VN vào guồng máy chiến tranh bên cạnh Thực dân pháp. Từ Liên Hiệp Pháp biến thành cơ cấu Chính Phủ Bảo Đại, rồi Chính Phủ Quốc Gia đương đầu với Liên minh Cộng Sản VN và Quốc Tế Cộng Sản Nga Sô -Trung Cộng và CS Đông Âu. Đằng này, Mỹ đi ngược từ một Đồng Minh chống Cộng Sản rút nhỏ lại, trở thành người VN chống lại Chủ Nghĩa CS. Đồng Minh triệt thoái về nước, Mỹ trở thành người yểm trợ bên cạnh. Hoa Kỳ đang tìm cách chạy làng, chạy tội, trốn trách nhiệm là kẻ đã khai sanh.

Thực hiện kế hoạch "De-Americanlize" hay "Vietnamization Plan," TT Nixon ra lệnh khẩn, mở rộng Quân Lực VNCH. Nhiều binh chủng, quân chủng ra đời thay thế cho Mỹ & Đồng Minh.

Trong các giai đoạn này, các giới trách nhiệm né tránh thực chất QLVNCH, lý tưởng, tinh thần tác chiến, khả năng chỉ huy một khi bành trướng gấp đôi. Mà chỉ nói đến "người khổng lồ" quân sự. Bỏ qua hoàn cảnh miền Nam lạc hậu, kinh tế hoàn toàn không phù hợp lực lượng vĩ đại như vậy. Sau đó giới quân sự Hoa Kỳ tuyên bố QLVNCH đủ khả năng để thay thế quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh. Họ bắt đầu triệt thoái toàn bộ ra khỏi VN.

Theo tác giả Berman viết, "Có lẽ điều quan trọng nhất Nixon đã thay đổi mục đích chính trị can thiệp. Thành bảo đảm một miền Nam VN Tự do và Độc lập, tạo điều kiện và cơ hội tự quyết số phận chính trị tương lai riêng!" (:50). Hiện thời Nixon trong tay đã có hai cây cột "Cuộc thương thuyết Paris" và kế hoạch "Việt Nam Hóa Chiến Tranh," hay rút quân Mỹ ra khỏi VN xây dựng "Hòa Bình Trong Danh Dự." Tuy nhiên chưa đủ đứng vững, vì cần phải có cây cột thứ 3 bảo vệ Học thuyết Nixon.

Cây cột thứ 3 khởi sự từ nhiệm kỳ TT Johnson tìm con đường Mật đàm với Hà Nội như đã trình bày ở trên. Nixon với ưu thế thời gian đã tiếp tục công việc dang đở của Đảng Dân Chủ.

Tác giả Berman trình bày hàng loạt sự kiện diễn ra. Tiến tới mật đàm với Hà Nội ngay sau khi Nixon đắc cử, không cần chờ tới ngày chính thức nhận chức. Để thực hiện đúng lời tuyên bố của Nixon vào tháng 3-1968.

Thúng Úp Voi

Tiểu đề trên là tên một Chương trong tác phẩm. Berman dùng trình bày một sự kiện Lịch sử Chiến tranh VN quan trọng. Nguyên ngữ "You Cannot Hide An Elephant With A Basket." Chúng tôi tạm dịch như trên.

*Không có Mật đàm chắc chắn Chiến tranh VN sẽ được giải quyết theo một chiều hướng khác. Vì Mật đàm có nghĩa là không muốn cho ai biết, trước khi đi đến kết qủa. Trong đó bao hàm ý nghĩa phản bội lẫn nhau giữa các Đồng minh. Nếu là chính nhân quân tử cần gì phải dùng đến Mật đàm, phải che dấu sự thật như Kissinger và Nixon chủ trương. Đồng Minh và Đối Thủ sẽ song song đàm phán công khai tại Paris. Cho nên nhiều nhà nghiên cứu kết tội "Hoa Kỳ đang tìm cách bán đứng VNCH." Kissinger đã thừa hưởng tiền đề liên lạc mật, dưới thời TT Johnson tạo ra Mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Rồi sau đó cả hai Mỹ và CSBV đi tới chấm dứt chiến tranh. Bất chấp quyền lợi của Đồng Minh, phía Mỹ đối với VNCH còn CSBV với MTGPMN

Vào ngày 12-1-1970, sau nhiều bế tắc đàm phán công khai. Kissinger viết một văn bản (Memo) tối mật giao cho Thiếu Tướng Vermon Walter, nhân vật quân sự thuộc Tòa Đại Sứ Mỹ Paris. Walter nói trôi chảy nhiều ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt. Tính tình cẩn trọng, bí ẩn được Kissinger tin tưởng. Giao thực hiện công tác tối mật của Hoa Kỳ, trong cuộc Chiến tranh VN.

Nhiệm vụ của Walter, chuyển giao điện văn lạ lùng "bằng miệng" cho Xuân Thủy và Mai Văn Bộ vào ngày 12.1.1970. Đích thân Kissinger nhắc nhở, Walter không được giao văn bản cho các nhân vật CS khác của Hà Nội. Kissinger đang thực hiện sứ mệnh của Nixon, khác hơn khuôn khổ đàm phán thông lệ đang khai diễn giữa 04 phe ở Khách sạn Majestic, Paris. Nội dung thông báo, "Kissinger có thể gặp Xuân Thủy tại một địa điểm do phía CSBV chọn lựa." Tuy nhiên Walter phải báo cho đối phương biết, Mỹ chọn lựa gặp gỡ vào cuối tuần, tránh cặp mắt báo chí và "Kissinger có lý do vắng mặt hợp lý tại Washington." Khởi diểm Mật đàm tuyệt đối an ninh vẫn nhiều bí ẩn cho tới ngày nay. Mặc dù một số văn kiện, chi tiết đã được phía Hoa Kỳ giải mật trước năm 2001. Cuộc chuẩn bị của Kissinger khá kỹ lưỡng, nhằm thu hút nhân vật cao cấp CSBV Lê Đức Thọ vào cuộc đàm phán với Kissinger. Ông dặn dò Tướng Walter, "Nếu họ đề nghị Tôi gặp một nhân vật (CSBV) kém quan trọng, ông phải nhấn mạnh yêu cầu Xuân Thủy đích thân tham dự cuộc thảo luận. Hoa Kỳ không quan tâm tới việc Xuân Thủy sẽ đem theo đại biểu cần thiết nào của ông."

Tướng Walter thận trọng ngay từ khi ra khỏi TĐS Mỹ tại Paris. Tránh mọi theo dõi của báo giới có thể làm tiết lộ công tác mật. Ông xử dụng xe hơi với biển số ngoại giao tới một địa điểm xa vị trí ấn định. Sau đó bỏ xe hơi, quay ngược trở lại bằng xe bus tới chỗ CSBV Hà Nội. Xuống xe bus, tiếp tục cuốc bộ tới khu vực các CSBV sinh sống tại Paris. Trong hồi ký của Walter viết, "hàng ngũ cao cấp CSBV sống trong khu vực sang trọng Quận 16 Paris." Sau khi hoàn tất chuyển công điện bằng miệng cho CSBV. Giới chức Mỹ hy vọng chờ đợi.

Sau đó nhiều ngày, Tướng Walter nhận được một cú điện thoại lạ từ một nhân vật CSBV Hà Nội, hiện đang sống ở Paris. Yêu cầu ông tới địa chỉ của CSBV "số 78 Rue Jules Langaisse khu vực Choisy -le Roi vào Thứ Hai 16-2-1970 thảo luận với Mai Văn Bộ." Cuộc tiếp xúc giữa Tướng Walter và Mai Văn Bộ tương tự như trước đây Walter tới gặp CSBV. Mai Văn Bộ "lấy trong túi áo ra một miếng giấy rồi đọc, báo cho Walter biết." Phía CSBV đã đồng ý gặp gỡ Mỹ vào ngày 20 hoặc 21-2-1970 trên đường Darthe, khu Choisy-le-Roy, một căn nhà an toàn và bí mật. Trước đây là nơi, CSBV dùng tiếp Averell Harriman thăm viếng với tư cách cá nhân. Thời gian gặp gỡ diễn ra cuối tuần, đã thỏa mãn yêu cầu của Kissinger. Mọi việc sắp xếp Mật đàm tiến triển hoàn mỹ.

Trong cuộc trao giữa BV và Mỹ, Walter đã hỏi, "Lê Đức Thọ còn ở Paris hay không? Và ông chuyển lời yêu của Kissinger muốn gặp Lê Đức Thọ. Mai Văn Bộ trả lời, Không rõ Lê Đức Thọ còn ở Paris bao lâu, nhưng nếu còn ở Paris sẽ tham dự hội nghị." (:62) Sau đó, theo Walters, Mai Văn Bộ hỏi Tôi (Walter) đã học tiếng Việt? Tôi trả lời đã học từ lâu. Bộ nói, ông cũng cố gắng học tiếng Anh. Rồi tâm sự, "Nếu đất nước của chúng ta không xẩy ra chiến tranh, ông sẽ sang Mỹ." Bộ nói, "Đồng bào của ông chiến đấu mà họ cho là đúng, nhưng đã phải nhận số lượng bom đạn lớn lao hơn bất cứ dân tộc nào . . ."

Chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ bí mật với CSBV, Nixon, Kissinger và Walters bận rộn sắp xếp ngăn ngừa mọi chi tiết có thể đưa tới tiết lộ. Trong những tài liệu được giải mật sau này cho biết, một số chi tiết liên quan tới giai đoạn chuẩn bị Mật đàm của Kissinger. 15 chuyến bay ra vào Paris, chưa bao giờ Kissinger phải gặp gỡ bất cứ nhân viên Thuế quan Pháp. Riêng tại Bạch ốc, Alexander Haig sắp xếp, tạo ra Kissinger nghỉ hợp lý. Tung tin Kissinger cuối tuần bay tới Camp David với Tony Lake và thư ký Dianne Matthew. Thực tế trong lúc đó, Kissinger và Tony Lake vội vã rời Ellipse bằng trực thăng, tới phi trường Andrews. Còn Dianne đi xe hơi thẳng tới Andrews với đồ đạc và dụng cụ. Họ sẽ cùng lên máy bay ra đi, khi trực thăng vừa tới phi trường Andrews. Tại Pháp, Tướng Walters đã sẵn hai phòng ngủ tại vùng Neuilly được chia cho Phái đoàn Kissinger. Dĩ nhiên Kissinger ngủ trong phòng của Walters, 02 phụ tá ngủ chung một phòng khác. Riêng chủ nhà, Tuớng Walters đành ngủ tại ghế ngoài phòng khách. Đầu bếp của Walters được báo là có khách qúy tên là "Harold A. Kirschman" tới thăm. Mật danh tạm thời của Kissinger.

Để tới chỗ tiếp xúc mật, Kissinger ngụy trang mặc áo choàng kín, ngồi đằng sau một chiếc Citroens. Tránh ký giả và ngay cả nhân viên TĐS Mỹ tại Paris, bảo mật. Tất cả đều xử dụng mật danh Luke (Kissinger), Yul (Xuân Thủy), Michael (Lê Đức Thọ), Xerxes (Walters).

Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Mỹ và CSBV diễn ra vào ngày 21-2-1970 tại đường Darthe. Phái đoàn Mỹ gồm 3 người, Kissinger, Tony Lake và Walters được Xuân Thủy đón tiếp hướng dẫn vào một phòng khách nhỏ, bên cạnh là phòng ăn. Một nhân viên CSBV là Lưu Văn Lợi, sau này mô tả,

"Đây là giờ phút lịch sử, Kissinger gặp Lê Đức Thọ lần đầu tiên, hai nhân vật hoàn toàn khác biệt về nguồn gốc xã hội, bản tính và tư tưởng chính trị." (It was a moment worth calling historical, . . . Kissinger met Le Duc Tho for the first time, two persons completely different in social origin, nature and political ideals." (:63). So sánh với cuốn "White House Years." của Henry Kissinger. (Boston. Little, Brown and Company. 1979) cuốn của Kissinger đầy đủ hơn rất nhiều. Trên trang 300 & 301 Berman đã trình bày lịch trình của Kissinger ngày 21-2-1970. Cũng như giải thích, tại sao tài liệu mật liên quan tới Kissinger thời Nixon lại tồn trữ trong Thư viện TT Ford. Chỉ vì Kissinger tiếp tục làm Bộ Trưởng Ngoại Giao dưới thời TT Ford. Độc giả có thể tham khảo dễ dàng các tài liệu đó khi cần.

Vào 30-7-1969 TT Nixon, trong chuyến công du Á Châu, bất ngờ với lý do thăm Quân đội Mỹ, dừng chân tại VN thảo luận với TT Thiệu và Tướng Abrams về "tương lại quân Mỹ triệt thoái, thay đổi chiến thuật, chiến lược quân sự." TT Nixon tuyên bố, "Cho tới nay đã đi được một đoạn đường khá xa, chúng ta phải bước vào mở cánh cửa Hòa Bình, và hiện thời đây là lúc phía bên kia đáp ứng lại." (We have gone as far now as we can or should go in opening the door to peace, now it is time for the other side to respond." "The Lost Crusade: America In Vietnam." Chester L. Cooper. New York; Dodd, Mead & Company; 1970 :521)

Theo tác giả Berman viết, "TT Thiệu đã tổ chức tiếp tân trong dinh Độc Lập tiếp đãi Nixon." Theo tài liệu giải mật, TT Nixon đã nói với TT Thiệu, "We canõt have you nibbled away . . . that is something that we are not willing to permit." ("No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, And Betrayal In Vietnam." Larry Berman. New York. The Free Press; 2001:53) Ngược lại TT Thiệu báo động cho Nixon biết, "Khi quân đội Mỹ triệt thoái hoàn toàn, Hà Nội sẽ tiếp tục đưa quân đội vào. Thiệu cảm thấy CS tham dự hội nghị Paris để mua thời gian, và chờ đợi lập trường Hoa Kỳ biến thái trở nên suy yếu hơn." TT Thiệu nhận định chính xác chiến lược của CS trong Hòa Đàm kể cả công khai và mật. Tuy nhiên khi hành xử, đối phó lại phạm nhiều sai lầm. Nixon đã trả lời, "Lập trường mà Hoa Kỳ tiếp tục dùng trong đàm phán, đã đẩy phe chủ hòa Bồ câu Hoa Kỳ vào thế thụ động. Kết qủa nếu đối phương khởi sự cuộc phản công khác, chúng ta với thế mạnh sẽ phản ứng mạnh hơn."

Sau đó Nixon ngỏ ý, muốn tiết lộ một điều "hoàn toàn mật!" Yêu cầu Thiệu không được thảo luận với ai, vì chính Nixon cũng không tiết lộ với bất cứ thành viên nào trong Chính phủ Mỹ, tính cho tới ngày hôm nay. Sự kiện được hạn chế giữa hai người. Nixon kể cho Thiệu biết kế hoạch Duck Hook - Không tập vĩ đại, tấn công CSBV trên đất Miên. Nguyễn Văn Thiệu đã ngây thơ, để một "Machiavellist Nixon" lừa dối. (Niccolò Machiavelli 1469-1577, tác giả cuốn sách nổi danh "Le Prince" ấn hành năm 1513. Dường như đã được dịch sang tiếng Việt mang tên là "Quân Vương." Chủ trương chính trị bá đạo nắm quyền lực.) Hành động của Nixon đã khiến TT càng thêm tin tưởng Nixon sẽ không dấu bất cứ điều gì ngay cả việc cỏn con Duck Hook . . .

Trong khi đó Nixon & Kissinger đang bí mật tìm cách móc nối Mật đàm với CSBV triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi VN, chỉ loan báo cho Thiệu, sau khi đã hoàn tất. TT Nguyễn Văn Thiệu cũng là một người thủ đoạn, gian hùng đã bị Nixon mê hoặc đặt hết niềm tin tưởng vào "Machiavellist Nixon"

Kết qủa mật đàm được DS Bunker thông báo cho Thiệu, không phải trực tiếp do Nixon. Nội dung đã bị các nhà lãnh đạo Mỹ bóp méo hoàn toàn, đến không còn hình dạng để biết đâu là sự thật. "Khi CSBV đòi hỏi Kissinger phải thay đổi Nguyễn Văn Thiệu" biến thành "Cộng sản chỉ nói về triệt thoái." (:69). Rồi Bunker còn "cả gan" cam kết với TT Thiệu về phiên Mật đàm diễn ra vào ngày 16-3-1970, "Kissinger chỉ nói về triệt thoái song phương và không đả động gì đến cơ cấu chính trị Miền Nam VN; rồi tiếp tục Mỹ sẽ tỏ thái độ về không bao giờ chịu chấp thuận hủy bỏ Chính phủ VNCH." Toàn những lý luận phù hợp với lập trường của Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ - Bùi Diễm - Phạm Đăng Lâm. Thực ra Bunker cũng chẳng hiểu nội dung mật đàm ra sao. Ông chỉ nói lại những cái mà ông được biết . . .

Cho tới giờ này, TT từ nhiệm Nguyễn Văn Thiệu dù đã chết, không ai rõ trong thời gian đó, ông có tường thuật Mật đàm cho một nhân vật nào trong dinh Độc Lập hay chỉ tường thuật cho:

1.-Cố vấn "cháu" Hoàng Đức Nhã, em ông Hoàng Đức Ninh hung thần, qủy râu xanh Vùng 4 bàn bạc, chứng minh ông nắm vai trò quyết định.

2.-Có tiết lộ cho nhóm Cố vấn chính trị Tối cao dinh Độc Lập, Điệp báo "T-4." Những chi tiết được đánh bóng lại, để "nhóm T-4" chuyển "lời vàng của TT Thiệu về Hà Nội." Họ sẽ đối chiếu với sự thật trong Mật đàm, ước tính được tình hình chính trị miền Nam, "Kissinger và Nixon" đang đưa TT Thiệu vào mê hồn trận dối trá, hứa hẹn.

Với suy luận bình thường, "các ông Nguyễn Văn Thiệu và Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ nếu không vì cả tin Nixon và Kissinger, thì sẽ thấy lời thông báo khó tin ngay." Ai cũng biết với lập trường thành tín thì cần gì phải đến Mật đàm. Qua Mật đàm cả hai bên Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nixon, Kissinger "đều không muốn cho người thứ ba ông Nguyễn Văn Thiệu biết quyết định của họ. Hoặc biết cũng đã an bày." Nhưng khốn nỗ các thủ thuật "cao tay ấn" của Nixon áp dụng. "Ghé tai TT Thiệu thân thiết dặn dò ở ngay bàn tiệc còn in đậm nét. TT Thiệu thiếu tỉnh táo phán đoán lời nói của TT Nixon không chân thật." Những việc như ông Bùi Diễm bị mua chuộc ảo tưởng như, "nhân viên tòa Bạch ốc lễ mễ bưng lại TĐS/VNCH, chứng chỉ đã từng đi Air Force One cho ông Đại Sứ VNCH. Làm sao có thể là con người thủ đoạn lạnh lùng được." Hơn nữa với tư cách Nguyên Thủ đại cường Mỹ, không thể dối gạt một đồng minh như VNCH!

Tuy nhiên dối trá Thiệu quan trọng nhất của TT Nixon không phải là sự kiện trên, mà cuộc mật đàm CSBV Mỹ đang diễn ra tại nhà Sainteny. Nhưng không được thông báo cho Thiệu biết mật đàm đã khởi sự. Đây là kết qủa, "Nixon đáp tạ" TT Nguyễn Văn Thiệu và Bùi Diễm khổ công sắp xếp ủng hộ Nixon trong cuộc vận động bầu cử hiện sự kiện trên Mỹ phải mất 04 năm moi móc tìm tòi. Mỹ bắt đầu mật đàm năm 1969 nỗ lực tìm cách song phương triệt thoái CSBV & Hoa Kỳ, không nói gì về Chính phủ Liên hiệp cuối cùng chấm đứt cuộc mật đàm vào năm 1973, với nỗi chua chát phải triệt thoái quân đơn phương.

Nixon và Kissinger thực hành học thuyết của Machiavelli, vào cuộc chiến tranh VN. Với nhiều mưu mô phản bội, lừa lọc tiêu biểu nhất giữa thế kỷ 20. Tác giả Berman nỗ lực phục hoạt không khí chính trị cả Mỹ - VNCH - CSBV đương thời. Nội dung của Mật dàm bị bưng bít không ai rõ đâu là sự thật. TT Thiệu chỉ được biết qua thông báo của Đại Sứ Bunker vào gần ngày 11-3-1970. Chính Bunker cũng không được tường trình rõ ràng. Nixon và Kissinger e ngại tin tức bị tiết lộ (?!) cho nên mọi thành viên Chính phủ Mỹ từ Bộ Trưởng Ngoại Giao, Quốc Phòng, Ủy Ban Tham Mưu Liên Quân đều ở ngoài cuộc. Mọi chi tiết Mật đàm Kissinger đã báo cáo trực tiếp cho Nixon với nhiều chi tiết lạc quan như "cuộc họp mặt sẽ tiếp tục; bỏ đòi hỏi các điều kiện tiên quyết vv . . ." Tác giả Berman nêu ra một điểm nhận định sai căn bản của Kissinger ngay trong lần gặp gở đầu tiên cho rằng,

"CSBV biết rằng họ không thể tiếp tục thảo luận mật, nếu họ không đưa ra một cái gì mới . . . Họ có vẻ lo âu về Việt Nam Hóa Chiến Tranh, bởi vì nếu kế hoạch thành công họ sẽ thất bại và nếu kế hoạch thất bại, Mỹ sẽ duy trì quân đội ở lại lâu hơn."

Tiền đề suy luận của Kissinger qúa chủ quan, thậm chí muốn nói là ngây thơ. Chính người Mỹ chủ động tìm cách thương thuyết mật, giải quyết vấn đề rút quân ra khỏi chiến trường VN, giảm thương vong. Chính Mỹ thúc đẩy kế hoạch Vietnamization, tạo ra lý do rút quân, nay Kissinger lý luận ngược lại. Ai cũng biết Mỹ, một cách tiệm tiến được Thủ Tướng Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu dồng lõa, để quân đội Mỹ và Đồng Minh vào không văn bản, kế hoạch "như một cái chợ chiều." Biến thành động năng thúc đẩy khối Liên Minh CS Quốc Tế, và Hà Nội leo thang. Cuộc chiến tranh phát triển tới điểm cực đại, với tham chiến của tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất của cả hai phe. Sau đó, Mỹ và Đồng Minh Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân, triệt thoái rồi cùng cho rằng Kế hoạch Việt Nam Hóa, QLVNCH đủ sức đương cự với CSQT và Hà Nội đó là sự phản bội qúa mức. Đổ gánh nặng lên đôi vai QLVNCH . . . Còn Quốc Hội Mỹ tiến hành biện pháp từ từ giảm viện trợ cho tới chấm dứt viện trợ hẳn vào đầu năm 1975.

Trong khi Mỹ vẫn tiếp tục thảo luận với CSBV. Tiến tới hòa bình trên giấy tờ như tác giả Berman viết "Peace is at the End of a Pen." (Hòa Bình xuất hiện trên ngòi bút) Chương 10. Sau 04 năm Nixon cầm quyền Hòa bình vẫn còn xa vời. Tác giả Berman đã đặt vấn đề,

"Nếu không vì vụ Watergate, TT Nixon tiếp tục ở thế mạnh, hòa bình được ký kết, liệu Nixon tiếp tục dội bom BV hay để họ chiếm Saigon như đã xẩy ra?" Trước vấn đề đặt ra của Berman, một nhân viên cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ ông Bùi Diễm ghi (Diễm :543, 544) Thực ra lúc đó, không ai ngờ rằng ông Nixon đã bắt đầu ngập vào vũng lầy Watergate. . . . Không ai trong chúng tôi có thể nghĩ được rằng phong ba bão táp sẽ đến với ông. Và rồi đây ông giữ ghế của ông còn chưa nổi thì làm sao nói đến ủng hộ hay giúp đỡ VN. (Thực ra vụ Watergate đã xẩy ra từ lần ứng cử thứ nhất của Nixon qua vụ Bùi Diễm và Chennault. Đây chỉ kết qủa của việc làm gian lận trước.)

Trong tháng 10-1972, trong cuộc họp báo TT Thiệu đã đưa ra nhận xét về Hiệp Định Paris. Điểm thứ 1 chỉ có các chi tiết được giải quyết, còn nguyên tắc chính trong dự thảo vẫn chưa được giải quyết. Ông vẫn tiếp tục đòi CSBV phải triệt thoái khỏi miền Nam. Điều thứ 2, TT Thiệu muốn vấn đề chính trị miền Nam phải được các lực lượng vào Đoàn thể miền Nam giải quyết. Trong khi đó cuộc mật đàm Kissinger thỏa thuận cho quân đội CSBV ở lại miền Nam VN. Đây là sự phản bội quan trọng của Mỹ đối với VNCH.

Thiếu sót của Berman

Tác gỉa Berman qua tác phẩm, trình bầy uẩn khúc Hiệp định Paris theo ý riêng của tác giả. Tuy nhiên ông đã thiếu phần: "TT Johnson đã chuẩn bị Hòa đàm như thế nào." Kết qủa đó đã được Nixon thừa hưởng ra sao? Chương này sẽ giúp cho người đọc hiểu rõ, việc Nixon thực hiện chỉ là chính sách rập theo Johnson. Phải chờ đợi công bố tập hồ sơ mật hiện lưu trữ trong Thư Viện Johnson ghi chép tất cả chính sách của Mỹ có được TT Nixon lấy ra áp dụng hay không? Điều này còn chờ thời gian trả lời. Sự thiếu sót của Berman đã làm cho người đọc bối rối không ít, trước khi phân tích đề tài cuộc tranh cử TT Mỹ bắt đầu vài tháng. Ngoài ra để thấy rõ được việc làm của hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Bùi Diễm quan trọng như thế nào đối với dư luận và chính giới Mỹ nói chung và hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ nói riêng. Gây ra lủng củng nội bộ chính trị Mỹ ra sao. Đây là một chương căn bản, để hiểu thực sự có hòa bình và danh dự hay không.

Người đặt viên đá đầu tiên cho thương thuyết hòa bình là Hoa Kỳ. Với nhiều phương cách, từ biện pháp tìm đường dây bí mật qua các nhân vật trung gian. Dùng võ lực dội bom đưa CSBV vào bàn hội nghị đều thất bại. Dư luận nói tới thương thuyết với BV ra đời vào cuối tháng 6-1968. Khi Ngoại Trưởng Dean Rush báo động, tường trình với TT Johnson, "Something is stirring on the otherside." (Dallek :564 "có một điều gì đó khấy động phía CSBV.) Ngay lập tức Chính phủ Mỹ triệu tập một phiên họp kín cho rằng, "Nếu chúng ta chấm dứt oanh tạc (tỏ thiện chí) để họ thực hiện."

Đến tháng 7-1968 Cố vấn An Ninh Rostow chống lại kế hoạch ngưng dội bom, vì thái độ của CSBV không tỏ dấu hiệu đáp ứng tương xứng. Rostow kết luận ngưng dội bom đồng nghĩa với thất bại. Nếu tiếp tục dội bom sẽ ngăn chặn được khoảng 20% đồ tiếp tế của CSBV trên đường mòn HCM. Tuy nhiên tình thế vẫn còn hy vọng. Riêng đối với Tướng Marxwell Taylor cho rằng ngưng dội bom sẽ giúp cho BV có thời gian củng cố mạnh hơn trước. Cuối cùng TT Johnson cử Bộ Trưởng QP Clark Clifford sang VN "điều tra thực trạng QLVNCH." Và điều quan trọng hơn cả là QLVNCH sẽ thay thế Quân Đội Mỹ đảm đương chiến đấu đơn độc. Đây chính là kế hoạch "Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau này Nixon thực hiện." TT Johnson đã bị ảnh hưởng qua báo cáo lạc quan của Cố vấn Paul Vann, cho rằng, "QLVNCH đang chiến đấu hiệu qủa hơn, Mỹ có thể giảm bớt sự hiện diện tại Nam VN." Hội nghị Honolulu giữa chính phủ Mỹ và hai ông Thiệu Kỳ manh nha thiết lập kế hoạch đưa vai trò của QLVNCH cao hơn, cho tới khi đủ sức thay thế Quân dội Mỹ triệt thoái.

BTM của TT Johnson tiếp tục tranh cải nhau, "dội bom đường mòn HCM và BV có ngăn cản được cuộc tiếp tế của CSBV." Người cho rằng giảm bớt được 25%, còn người nói không. Tất cả đều căn cứ vào các báo cáo thống kê. Phụ Tá BT/QP Paul Warnke (7-1968) cho CS tiếp tế giảm 25%. Chứng minh dữ kiện tính tới ngày 31-3-1968 "đã giảm bớt xâm nhập người và vật liệu từ BV vào miền Nam." Tuy nhiên sau khi xét, lại xâm nhập trong 3 tháng đầu năm 1968, lại cao hơn 2 lần so với 3 tháng đầu năm 1967. Đôi lúc khoa thống kê tinh vi, các con số chính xác, nhưng nay ngược lại. Dung hòa ý kiến trên, Harriman, Vance, Clifford đề nghị TT Mỹ loan báo, "chấm dứt dội bom." Nếu CSBV lợi dụng để xâm nhập. Quyết định đó sẽ được chứng minh sai hay đúng! Sau đó "chúng ta sẽ tái oanh tạc!" Luôn luôn Tây phương rơi vào "lý luận nhất nguyên chi phối tư tưởng chiến tranh." Hoa Kỳ đang thí nghiệm các giải pháp, nỗ lực đưa CSBV và bàn hội nghị. Cuộc thảo luận dường như không bao giờ chấm dứt, vì muốn tìm con số đúng tuyệt đối cho giải pháp VN. Cuối cùng TT Johnson đưa ra nhận định làm chưng hửng mọi người. "Hiện đối phương đang xử dụng thương thuyết, âm mưu tạo ra làn sóng người Mỹ đòi chấm dứt oanh tạc." Johnson tin rằng, CS Quốc Tế đã tạo ra Phong trào đòi chấm dứt ném bom ngay tại Hoa Kỳ." Đây là một căn bệnh chung, tìm cách lý giải chủ quan. Ông ta trách cứ lung tung, như Clifford trong các cuộc họp báo đã không đưa ra được kết luận hiệu qủa việc oanh tạc BV.

Tới tháng 8-1968, trong một cuộc họp riêng giữa Clifford với TT Johnson. Clifford đã trình bày quan điểm quân sự của ông về kết qủa oanh tạc BV. Cho rằng, "chỉ lấy con số 30 tấn tiếp liệu quân sự mà CSBV đã chuyển vận vào miền Nam. Nếu họ chuyển vận 100 tấn, mà chúng ta chỉ làm giảm đi được 25 tấn, họ vẫn được tiếp tế đầy đủ. Con số tuyển mộ lính chiến đấu hàng tháng của VC tiếp tục giữ được ở mức độ như năm 1967, bù vào con số hàng tháng 7.500 thiệt hại, lực lượng của họ vẫn gia tăng. Nước Mỹ đã nỗ lực trong 3 năm rưỡi để tìm chiến thắng bằng quân sự. Điều đó đã không thể thực hiện được, bởi vì chúng ta đã chủ trương theo đuổi một cuộc ỏChiến Tranh Giới Hạnõ sẽ không thể đạt được kết qủa như trong hai cuộc Thế chiến I và II. Hiện giờ Chính phủ Miền Nam đã không chủ trương chấm dứt chiến tranh. Chúng ta cần phải giảm mức độ chiến đấu qua hình thức thương thuyết Paris, áp lực Chính phủ Saigon thương thuyết với Hà Nội." ("Talk with LBJ" Aug. 4,1968, Clifford Papers, Counsel to President :558. Dẫn theo "Flawed Giant: Lyndon Johnson and His Times :1961-1973." Robert Dallek. New York; Oxford University Press; 1998 :568, 729). Trước lập luận của Clifford, mặc dù hữu lý, nhưng vẫn bị TT Johnson bác bỏ. Dựa trên một báo cáo từ Paris, ủng hộ giải pháp oanh tạc. Mỹ đưa ra lập luận mới, "Ngưng oanh tạc tùy thuộc vào CSBV có xuống thang chiến tranh hay không." Quan điểm của Clifford, phần nào tương tự người tiền nhiệm McNamara, do mâu thuẫn tư tưởng khiến McNamara đã phải từ chức. Cuộc họp riêng lần thứ 3 trong tháng 8-1968, Cyrus Vance đã báo cáo "Phái đoàn CSBV, Hà Nội đã yêu cầu Hoa Kỳ triệt thoái quân ra khỏi miền Nam VN và công nhận MTGPMN là một thành phần có tiếng nói quyết định cho giải pháp về VN." Cánh cửa thương thuyết cần thiết đã hé mở.

Tới tháng 9-1968, Ngũ Giác Đài đưa ra dự đoán CS tiếp tục gia tăng hoạt động Quân sự. Và mặc dầu TT Johnson bi quan về chấm dứt oanh tạc, yêu cầu Clifford thảo luận nhận định của Clifford với Ngoại trưởng Dean Rusk. Tư tưởng hai người qúa nhiều dị biệt. Đến nỗi TT Johnson nói với Clifford, "Mỗi ngày Tôi đọc trên báo chí đều thấy sự khác nhau sâu xa giữa ông và Dean. Tôi nói với cả hai ông rằng, Tôi muốn điều đó chấm dứt." Thực tế, TT Johnson không nghĩ Cộng sản gia tăng xâm nhập bắt nguồn từ ngưng oanh tạc. Hiện thời CS vẫn tiếp tục ý đồ tung ra những cuộc phản công mới. Cuộc chấm dứt oanh tạc sẽ gia tăng thiệt hại về phía Hoa Kỳ. Trong cuộc họp nội các ngày 2-8-1968, TT Johnson tỏ rõ ý định, "Hòa bình chúng ta muốn, bây giờ sẽ tệ hại hơn bất cứ cuộc hòa bình nào trên thế giới - nhưng vì danh dự sẽ không bao giờ rút lui." Hơn thế nữa "61% dân chúng (Mỹ) không muốn chấm dứt ném bom." Quan niệm theo đuổi chiến tranh cho tới cùng, do TT Johnson khởi xướng không thay đổi. Bao nhiêu nỗ lực tiến tới thương thuyết vẫn còn đầy rẫy trở ngại. Tới tháng 10-1968, Chính phủ Mỹ và TT Johnson hy vọng sẽ thông qua được trước ngày bầu của TT Mỹ sẽ diễn ra vào ngày 5-11-1968 có lợi cho ứng cử viên Hamphrey Đảng Dân Chủ. Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk nỗ lực khai thôn,g tìm kiếm phía ủng hộ thương thuyết. Ông thảo luận với Nga Sô.

Kết luận Trong cuốn "Gọng Kìm Lịch Sử" sau khi ý thức được vai trò đã qua của chính Bùi Diễm, ông viết, "Chiều hôm đó ông Thiệu từ chức. Tôi không ngạc nhiên, vì được biết ông Martin đã đến gặp ông Thiệu chiều ngày chủ nhật 20 (4-1975), nhưng đến khi nhìn thấy ông trên đài Truyền Hình, đổi lỗi hết cho Hiệp Định Ba Lê, Kissinger rồi đến sự thất ước của Hoa Kỳ, thì thật là một cảnh tượng nửa khóc nửa cười. Đang cảm thấy kiệt quệ, cả về thể xác lẫn tinh thần, Tôi cố gắng nghe lời phân trần của ông Thiệu, nhưng không hiểu tại sao lúc đó Tôi như người có tâm trạng thẹn thùng, bẽ bàng khó tả. Tôi lặng lẽ tắt TV rồi cố ngóc dậy, ra đường không biết đi đâu."

Tại sao Bùi Diệm trở về VN vào giờ phút chót, vì Bùi Diễm được Bob Shaplen, một ký giả báo New Yorker từ Hồng Kông điện thoại thuyết phục Diễm rời Washington về Saigon từ đầu tháng 4-1975, giúp Thiệu đương đầu với các sự kiện và cho "đó là lòng yêu nước." (Người ta cũng không rõ tại sao Shaplen lại có đủ uy quyền đến như thế? Cổ thi có câu, "Nhất thất cước thành thiên cổ hận." ) Nhưng Thiệu đã tiếp tục con đường của Thiệu. Diễm đã nói với mẹ, một cụ già 90 tuổi, và em gái phải rời Saigon. Đại Sứ Graham Martin giúp đỡ phương tiện đưa cả ba "Bùi Diễm, mẹ và em gái" lên một chuyến phi cơ của Hải quân tới Bangkok rồi từ đó đáp máy bay thương mại tới Washington. Người Mỹ quả thật ưu ái đối với Bùi Diễm! Trên đường di chuyển ông đã mang theo một số hành lý và một "túi ảnh nhỏ đó là các tấm hình Diễm đã chụp chung với Lyndon Johnson, Den Rusk, Cabot Logde, Max Taylor, Averell Harriman, Walt Rostow, Ellsworth Bunker, William Bundy, Richard Nixon và Henry Kissinger. Bùi Diễm đã rời VN với một sưu tập ảnh của những người Hoa Kỳ thề bảo vệ VN." ("Our Vietnam: The War 1954-1975." A. J. Langguth. New York; Simon & Schuster; 2000 :658) Sau này Bùi Diệm viết cuốn hồi ký "Gọng Kìm Lịch Sử" trong đó chỉ nhằm biện minh cho Thủ Tuớng Phan Huy Quát và ngay cả bản thân ông về việc "không có trách nhiệm đưa quân Mỹ vào miền Nam VN." Tuy nhiên đối chiếu với cuốn "No Peace, No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam"của Berman khách quan hơn trình bày thời đại của Machiavelli thế kỷ 20.

 

 

Copyright (c) DaiChung News Media 2002