|
|
|
Đại Chúng số 112 - ngày 15 tháng 12 năm 2002 |
Bac Si Alexandre Yersin
|
Bác sĩ Alexandre YERSIN Người có công với Việt Nam Bài thuyết trình tại Hội Hành Thiện ngày 27/10/2002 của bác sĩ NGUYỄN VĂN BA Tháng Tám năm 2000, đi viếng thăm Viện Bảo Tàng A. YERSIN, lúc ký tên vào sổ vàng, chúng tôi liếc qua những lời ghi chú của các quan khách, thấy phần đông đều một ý như nhau : "Tại sao một nhà bác học lớn, một nhà nhân ái tầm cỡ như thế, mà trong quê hương ông ít ngườI được biết tiếng ?" Không một bịnh viện nào, không một trường học nào mang tên của ông. Tại Paris có công trường Yersin, nhưng rất xa trung tâm thành phố. Thắng bịnh dịch hạch, ân nhân của nhân loại, vị tha, quên mình, Yersin là người đã chiếm tình cảm dân tộc Việt Nam một cách êm thắm. Đi trước thế kỷ của mình, ông là người mở đầu trợ giúp cho các xứ nhược tiểu, phát triển về trồng trọt, chăn nuôi và y tế. Nếu các nhà lãnh đạo của những nước giàu mạnh theo gương A. Yersin, thì các dân tộc trên thế giớI sẽ được hoà hợp với nhau. Long Vân Khánh Hội Du khách đến Nha Trang bằng đường hàng không, hoặc đường bộ, tàu hoả, không nhận thấy tất cả vẻ đẹp của Nha Trang bằng tàu thủy. Ngoài khơi, những hòn đảo xinh xắn, hàng ngàn mỏm đá nhấp nhô trên mặt nước, làm cho du khách nhớ đến cảnh Hạ Long. Tàu chầm chậm len lỏi giữa mỹ cảnh thiên nhiên, và trước mặt du khách hiện ra một bãi biển cát mịn nhìn mút mắt trải dài từ Hòn Chồng đến Cầu Đá. Tháp Chàm PONAGAR xây từ thết kỷ 12 thêm một nét độc đáo không nơi nào có. Cất trên một hòn cẩm thạch cao 23 thước, nhìn xuống dòng sông Nha Trang. Sau Nội Địa, rừng núi thẩng tắp đến chân trời. Vầng thái dương chiếu quanh năm, nhưng khí hậu rất ôn hoà, và trên không trung bầu trời xanh thẳm hiến cho du khách một nơi giải lao tuyệt diệu. Cách đây trên một thế kỷ, ngày 29/07/1891, một thanh niên Pháp 28 tuổI, mảnh khảnh, rụt rè mà cương quyết, y sĩ của tàu hàng hải thương thuyền, đặt chân lên bờ biển Nha Trang và bị chinh phục bởi vẻ đẹp của đất nước này. Thanh niên ấy chính là bác sĩ Yersin, nhà bác học tương lai, về sau chiến thắng bịnh dịch hạch, lừng danh thế giới, có lòng nhân ái, suốt đời gắn bó với đất nước dân tộc VI_T NAM và được tôn sùng như thần thánh. Yersin phát nhận Nha Trang chẳng khác nào rồng gặp mây :'Long Vân Khánh Hội". Thời niên thiếu Alexandre Yersin sanh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại hạt Lavaux tổng Vaux tỉnh Morges, tây nam nước Thụy Sĩ. Cùng năm ấy, Henri Dunant ngườI Thụy Sĩ phát động phong trào hồng thập tự quốc tế. Cha là Jean Yersin giái sư Khoa học Tự nhiên tại trường trung học ở Morges nổI tiếng vớI những công trình nghiên cứu về côn trùng học, mất năm ba mươi tám tuổI, ba tuần trước khi Alexandre Yersin ngườI con thứ ba của ông ra chào đời. Ngoại tổ của A. Yersin là gốc ngườI Pháp sang định cư ở Thụy Sĩ, để lánh nạn kỳ thị tôn giáo Tin-Lành, dướI thờI vua Louis 14 khi chánh quyền Pháp hủy bỏ sắc lệnh thành Nantes. Thời niên thiếu A. Yersin học tại Lausanne đỗ tú tài năm 1882. Năm 1883 vào học ngành y trong viện hàn lâm cũ của Lausanne. Sau đó, Yersin thi vào trường Đại học ở MARBURG, nước Đức, và một thời gian sau sang Paris. Tại đây A. Yersin được giáo sư Cornil chuyên ngành bện thể, nhận vào giúp việc Cornil trong cơ quan của ông ở Hôtel Dieu. Một buổi sáng thánh 4 năm 1886, tại bịnh viện Hôtel Dieu, trong buổI thực tập, A. Yersin được giớI thiệu với giáo sư Émile Roux. Chẳng mấy chốc giáo sư Émile Roux đã nhận thấy tính chuyên cần, ham học, ham làm của A. Yersin. Bãy giờ Émile Roux làm phụ tá cho nhà bác học Louis Pasteur tại phòng thí nghiệm của trường cao đẳng sư phạm ở đường Ulm quận 5 Paris. Ngoài giờ làm việc tại Hôtel Dieu, A. Yersin được phép đến phòng thí nghiệm đường Ulm, thực tập. Một mặt, A Yersin lo làm luận án tiến sĩ y khoa "Bịnh lao thực nghiệm", một mặt cộng tác vớI Émile Roux, nghiên cứu vi khuẩn bịnh "bạch hầu". A. Yersin cũng được nhà bác học Louis Pasteur lưu ý. Ông bà Pasteur mời Yersin cùng Émile Roux dự buổi ăn tối tân niên 1888. Trong thư gởi cho mẹ, A. Yersin kể : Đúng 8 giờ, con và ông Roux rời phòng thí nghiệm để lên phòng của ngài Pasteur, chỉ cần băng qua sân của trường. Bữa ăn tối rất ngon và thoải mái. Sau đó, các vị hút thuốc (dĩ nhiên là không có con). Kế đó, mọI người sang phòng khách. Ngài Pasteur đề cập đến công trình nghiên cứu rất quan trọng do ông Roux vừa thực hiện, và đăng trong số chót của tập biên niên viện Pasteur. Đúng như thế, công trình nghiên cứu này chứng minh có thể chủng ngừa một số bịnh nhiễm trùng nặng, không phải bằng những vi khuẩn gây bịnh, vì dù đã bị làm yếu đi, chúng vẫn còn nguy hiểm, mà dùng độc tố những vi khuẩn tiết ra, nghiã là với một hoá chất hoàn toàn mất sinh lực. Ngài Pasteur cũng có nói về con, là sau khi tốt nghiệp bác sĩ, con sẽ là thành viên tích cực cuả viện Pasteur. Năm 1888, A. Yersin vừa đúng 27 tuổI trình luận án tiến sĩ y khoa "Bệnh lao thực nghiệm", và được nhận làm phụ tá cho giáo sư Émile Roux, trong viện Pasteur vừa khai trương năm ấy tại Paris. Năm 1889, A. Yersin được chấp nhận vào quốc tịch Pháp. Năm ấy trùng với lễ bách niên của cuộc "Cách mạng Pháp" và khánh thành tháp EIFFEL. Dưới sự hướng dẫn của Émile Roux, A. Yersin tìm ra độc tố của vi khuẩn bạch hầu.Từ bỏ đường công danh để theokhuynh hướng thiên nhiên Một tương lai rực rỡ đang chờ Yersin ở viện Pasteur, nhưng là người thích mạo hiểm thích phiêu lưu, A. Yersin không thể nào mãi mãi tự giam mình trong phòng thí nghiệm. A. Yersin muốn vẫy vùng cho thỏa chí, thường nói với các bạn : Tôi luôn luôn mơ ước khám phá nơi nầy nơi nọ và thám hiểm ; Khi ta còn trẻ không có gì là không thể được. NgườI hiểu A. Yersin hơn ai hết có lẽ là Noel BERNARD nguyên giám đốc viện Pasteur Saigon. Theo ý ông : A. Yersin muốn thoát ly khỏi những mối lo âu gia đình, những tham vọng về danh lợI, và địa vị không bao giờ thoả mãn, muốn ra khỏi lề lối ràng buộc. Thế rồi tháng 9.1890, A. Yersin đáp tàu sang Viễn Đông giữa sự bàng hoàng của các thày các bạn. Ông sang Viễn Đông không phải với tư cách một sứ giả khoa học, mà chỉ vớI tư cách một bác sĩ làm công hợp đồng cho hãng "Vận Tải Hàng Hải". Pasteur đã viết trong nhật ký của mình ngày 23.10.1892 :"Bỗng nhiên ý định cuồng nhiệt của Yersin không ai ngăn nổi. Không làm sao cầm giữ ông lại bên cạnh chúng tôi nữa." Đất lành chim đậu Yersin làm việc trên chiếc tàu chạy dọc bờ biểm Việt Nam nối liền Sài Gòn, Nha Trang, Hải Phòng. Lần đầu tiên, mặc dầu thấy Nha Trang từ đằng xa, Yersib đã bị chinh phục. Ông ghi trong sổ nhật ký : Ngày 6.5.1891 : "Rời Sài Gòn phải mất 28 tiếng đồng hồ mới đến Nha Trang tàu phải neo cách bờ một dậm, và chỉ đậu lại một giờ, vì thế không lên bờ được. Thật đáng tiếc vì vùng nầy có nhiều núi non và phong cảnh rất ngoạn mục. Trong rừng đầy cọp... Lần sau, Yersin xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc mà ông đem theo. Đó là ngày 29.7.1891. Phong cảnh hữu tình, bờ biển cửa sông các đảo ngoài khơi, màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, khí hậu ôn hoà, chinh phục Yersin. Ông quyết định chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba, làm việc và sống chết ở đây. Năm 1896, A. Yersin viết thư mời Émile Roux đến làm việc chung với ông. Ông tán dương vẻ đẹp quyến rũ của đất nước Việt Nam, và sự niềm nở của dân chúng ở đó. Nhà thám hiểm Sau khi tìm được mảnh đất lành, A. Yersin xin thôi việc ở "Vận Tải Hàng Hải". Bác sĩ A. Calmette cũng là môn đệ của Pasteur, đến Sài Gòn lập chi nhánh viện Pasteur, mời ông cộng tác, ông từ chối vì muốn đi thám hiểm vùng cao nguyên Trung Việt. Đầu tiên ông muốn tìm một đường bộ nối liền Nha Trang với Sài Gòn. Từ Nha Trang, ông đi ngựa ra Phan Rí rồi thuê một người dân thiểu số dẫn đường vào rừng. Đến Di Linh gặp nhiều trở ngại đành quay lại Phan Thiết, lấy thuyền về Nha Trang. Lần thất bại nầy không làm ông nản chí. Yersin quyết tâm thám hiểm các miền rừng núi dọc theo dãy Trường Sơn. Thời bấy giờ các vùng ấy còn là những nơi bí hiểm, rừng thiêng nước độc. Ngoài các bộ lạc thiểu số không khuất phục triều đình, ít ai đặt chân đến nơi hoang vu ấy. Ngày 23.9.1892, Yersin lên đường đi thám hiểm lần thứ nhứt, cùng với một ngườI bồi và năm ngườI cộng sự Việt Nam, đem theo máy kinh vĩ để ghi toạ độ các làng mạc của các dân tộc thiểu số. Từ Nha Trang ông ra Ninh Hoà, lên Ban Mê Thuột, đến Stung Treng, nằm trên bờ sông Cửu Long, về Pnom Penh rồi theo đường thủy ra Phú Quốc về cảng Sài Gòn. Trong thờI gian hai tháng rưỡi, Yersin đã thành công việc quan sát các bộ lạc thiểu số, chụp 140 ảnh giá trị, và vẽ hoạ đồ những vùng đã trải qua. Ông đã phát giác những phụ lưu của sông Cửu Long phát nguyên tại Trường Sơn chảy đến Stung Treng. Yersin thực hiện cuộc thám hiểm nầy với tính cách cá nhân, không có sự trợ giúp của chánh quyền. Tháng 10.1892, Yersin về Paris để tường trình những kết quả đã thâu thập với các giới thẩm quyền, hầu mong được viện trợ cho các cuộc thám hiểm khác. Sau nhiều lần thất bại, nhờ người quen giớI thiệu ông được bộ quốc gia giáo dục tặng 15 000 quan Pháp, và gởi gắm ông cho De Lanessan. Ngày 29.1.1893, tại Sài Gòn, Yersin gặp Jean Marie De Lanessan, toàn quyền Đông Dương, giao cho ông nhiệm vụ thám hiển vùng Sơn Lâm phiá nam Trung Việt, nghiên cứu phương án làm đường đi đến các vùng dân tộc thiểu số, khai thác khoáng sản và lâm sản, cùng khả năng chăn nuôi. Phát giác cao nguyên Lâm Viên Ngày 29.1.1893, ông khởi hành từ Biên Hoà có 4 người Việt phụ tá. Sau khi vượt qua núi rừng hiểm trở và các làng mạc của dân tộc thiểu số, ngày 21.6.1893 Yersin phát giác Cao Nguyên Lâm Viên, cao 1500 thước, tức thành phố Đà Lạt ngày nay. Yersin ghi trong sổ tay : Ấn tượng thật là sâu sắc. Từ trong rừng thông bước ra, tôi thấy ngay trước mặt khu cao nguyên rộng lớn trơ trụi, giống như mặt biển đang cuộn lên những đợt sóng xanh rì. Rặng núi Lâm Viên vớI 3 đỉnh cao 2000 thước, vươn lên từ chân trời phiá tây bắc, tạo nên bức phông hùng tráng làm tăng vẻ diễm lệ của vùng nầy. Năm 1899, Paul Doumer toàn quyền Đông Dương cho thiết lập nơi ấy một trung tâm nghỉ mát cho ngườI Âu Châu, sau này là thành phố Đà Lạt. "Đà Lạt" là tên gọi của địa phương do ở đó có nhiều suối lớn, sông dài và có dân tộc L_T cư ngụ. Giải thích khác của một cố đạo bằng tiếng La Tinh là sai lạc. Lần ấy, trên đường về, đoàn thám hiểm bị phục kích. Yersin bị thương phải đưa võng về Phan Rang. Kẻ tấn công ông là tù chánh trị thoát ngục. Một tuần sau, dân quân bắt lại được 40 ngườI trong 56 ngườI vượt ngục, có cả ngườI chỉ huy tên Thục, cao lớn và thanh lịch. Yersin viết thư cho mẹ về cuộc hành hình của tù chánh trị : "Hôm nay, Thục bị xử trảm. Con có dự. Thật ra rất là ghê tởm. Sau nhát gươm thứ tư đầu mới rơi. Hơn nữa, Thục rất trầm tĩnh. Những người Việt Nam chết can đảm khác thường". Ngày 12.2.1894 Yersin lại lên đường thám hiểm lần thứ ba. Ngoài 54 ngườI tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng đi theo hộ vệ. Yersin khảo sát những vùng từ Lâm Viên đến Đarlac rồi xuyên qua Trường Sơn đến Attopeu điạ phận Ai Lao. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông đi về phía Đông, xuyên Trường Sơn lần nữa rồi tới Tourane (Đà Nẵng). Chuyến này gay go cực nhọc hơn trước. Ngày 11.4, ông ghi trong sổ tay : Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trờI mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét mặc dầu đã uống thuốc ngừa... Chúng tôi đi qua các làng của bộ tộc Keuyong, Jri Taseng, rất cực nhọc. Một khúc quanh lịch sử trong đời Yersin Năm 1892, ít lâu sau vụ thám hiểm lần thứ nhứt, Calmette khuyên Yersin nên gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi lo về mặt tài chánh. Chính trong khi giữ chức vụ nầy, Yersin có cơ hội tìm ra vi khuẩn bịnh DịCH H_CH. Yersin không đoán trước được rằng nhiệm vụ mới nầy sẽ đưa ông đến đài vinh quang, và ông phải cần viện Pasteur bảo trợ như trước. Xin xem tiếp kỳ tới : Khám phá ra vi khuẩn gây bịnh dịch hạch... |
|
Copyright (c) DaiChung News Media 2002
|